Hôm nay,  

Thằng ăn cắp xe đạp

02/01/202413:52:00(Xem: 3195)
Truyện

toi

Mùa này trời tối nhanh, Tết sắp đến, trên con đường làng vắng vẻ, hai bên là những mái tranh nghèo xơ xác, thấp thoáng vài ngọn đèn dầu tù mù, nhìn xa như những đốm ma trơi thoắt ẩn hiện sau những hàng rào tre, càng làm tăng cái vẻ đìu hiu, quạnh quẽ. Ở đây, người dân lo ăn cơm cho nhanh trước khi mặt trời đi ngủ để còn thấy đường dọn dẹp và rửa chén; hơn nữa là để tiết kiệm nhiên liệu vì tiêu chuẩn mỗi gia đình một tháng, chỉ mua được 1 lít dầu hôi thắp đèn.
    Trong bóng đêm, hai bóng đen đang bước đều bên nhau, người cao lớn hơn đang hăng say vừa vung tay vừa thuyết phục người kế bên làm một việc gì đó, người kia vừa lắc đầu vừa thoái thác. Những căn nhà tranh đang nằm im lìm trong đêm đen như không còn sức sống vì chẳng mấy nhà còn để đèn sáng. Chợt người nhỏ con hơn lên tiếng:
    – Tao run quá mày ơi. Thôi tao về.
    – ĐM, sao mày nhát như thỏ đế. Muốn có tiền mà sợ.
    – Từ nhỏ tới lớn, tao chưa bao giờ làm chuyện này.
    – Tao làm chứ mày có làm đâu. Mày chỉ việc canh chừng bên ngoài thôi.
    – Nhưng tao là đồng lõa.
    Nói xong, người kia quay đầu lại, dứt khoát bỏ về, để người cao lớn đứng giữa con đường đất lẩm bẩm chửi thề trong miệng. Hắn ta tiếp tục bước đi trong đêm đen, những bước chân nặng nề như tâm hồn của hắn.
    Từ lúc bỏ lại thằng bạn một mình trên đường, thằng nhỏ con vội vàng quay về túp lều tranh trên miếng đất rẫy, rất xa xóm làng, nơi người vợ yêu dấu và đứa con trai mới chào đời được vài ngày. Lòng nó ngổn ngang bao suy nghĩ giằng co. Những bước chân hoang mang bước xiêu vẹo ngang qua khu nghĩa trang của làng. Bụng nó đói meo, cái bao tử cứ sôi lên òng ọc vì từ sáng đến giờ chỉ vài miếng khoai mì luộc trong bụng, còn toàn nước và nước. Nó cứ lê những bước chân vô hồn như thế đến trước căn chòi ọp ẹp lúc nào không hay.
    Nó nhìn cánh cửa xiêu vẹo được làm tạm bợ bằng tre, rồi nhìn chung quanh, những cây khoai mì mới cao đến thắt lưng, còn nhỏ lắm, chưa đến ngày nhổ, mờ mờ ẩn hiện trên những vồng đất thẳng tắp. Tết sắp đến rồi mà giờ này trong nhà nó không còn một chút gì để ăn. Nó không dám mơ đến một miếng thịt hay một miếng mứt tết. Nó chỉ mong có thêm vài lít gạo trong nhà. Nó có thể cải thiện bữa ăn bằng cách bắt rắn, thằn lằn, kỳ nhông hay bất cứ một con vật gì sống trên rẫy; rau là những loại rau dại mọc khắp nơi và đọt giây khoai lang, lá khoai mì mà nó trồng chung quanh nhà.
    Nâng nhẹ cánh cửa, nó bước vào bên trong. Căn chòi chỉ độc nhất cái đèn hột vịt còn leo lét chút ánh sáng sáng chập chờn trên cái bàn ở góc nhà, soi lên vách cái ánh sáng vàng vọt. Vợ và đứa con sơ sinh đắp mền, đang say ngủ trên cái chõng tre. Không một tiếng động, chỉ thỉnh thoảng tiếng cựa mình của đứa bé kiếm đòi vú mẹ. Vợ nó đang kiệt sức lắm, sinh nở xong, không có cái gì tẩm bổ, chỉ toàn sắn khoai, nên mệt mỏi, ngủ vùi như chết. Nhìn cảnh này, nó cố nuốt ngược nỗi đau vào lòng, thẹn vì mình bất tài, hận vì chung quanh mình ai cũng đói như nhau.
    Nó nhẹ nhàng ngồi xuống cạnh giường và đưa bàn tay chai sạm rờ vào đầu tóc rối bù và khuôn mặt gầy gò của vợ. Nó cảm giác ướt dưới mấy ngón tay, hình như vợ nó đang khóc trong giấc ngủ mỏi mệt. Vợ nó trở mình, qua ánh đèn vàng vọt, nó vẫn thấy được những giọt lệ long lanh còn sót lại trong mắt nàng, đứa con trong lòng chợt cựa quậy, khóc đòi bú. Thằng bé đang nhai vú mẹ cố tìm những giọt sữa cuối cùng. Giọng vợ nó yếu ớt:
    – Anh về hồi nào?
    – Về nãy giờ rồi.
    – Có kiếm được cái gì không anh?
    – Bữa nay không ai dám đi nhổ trộm khoai mì nữa vì nghe đâu tụi du kích, công an nó đi lùng dữ lắm. Anh tới nhà thằng bạn ngồi chơi hút vài điếu thuốc rồi về.
    – Thôi vậy cũng đành.
    – Để anh đi nấu cho em nồi cháo nóng, húp cho khỏe.
    Tiếng lon sữa bò quẹt vào đáy cái hộp nhựa đựng gạo nhỏ xíu vang lên trong đêm nghe não lòng như những tiếng thở dài hằng đêm của hai thân phận khốn cùng. Vợ chồng nó đã kiếm hết cách rồi, từ đi rừng, bắt cua còng, làm thuê, mót lúa, kể cả đi kéo xe cải tiến, chồng kéo, vợ đẩy cả xe củi, đổ mồ hôi sôi con mắt. Không còn việc gì mà hai vợ chồng không làm. Sắp đến ngày sinh, vợ nó phải nghỉ ở nhà, chỉ mình nó bương chải nhưng vẫn không đủ ăn. Vốn là thằng học trò từ thành phố, đi kinh tế mới về vùng quê vài năm nay, nó đâu biết việc gì mà làm.
    Căn chòi hai vợ chồng đang ở là do mấy thằng bạn phụ một tay, cất tạm bợ trên miếng đất rẫy của người bà con xa bên vợ, người ta thương tình cho nó vừa ở vừa trông coi vườn khoai mì của họ. Thời buổi mà con người lúc nào cũng đói, lúc nào cũng nghĩ đến ăn, làm sao để lấp đầy cái bụng; nhận thức không cao hơn bao tử, cuộc sống không bằng một con vật nên hở cái gì là mất cái đó. Người người ăn cắp lẫn nhau để sống còn.
    Ăn cháo xong, vợ nó trở lại giường nằm bên con, nó cũng ra nằm trên chiếc giường tre, gian bên ngoài. Cứ lăn qua trở lại cả đêm mà không sao nhắm mắt được. Lúc vừa thiu thiu ngủ thì có tiếng đập cửa, một giọng nói cất lên:
    – Công an ấp! Mở cửa ra!
    Nó vùng dậy, kéo chốt và nâng cánh cửa qua một bên. Một đám người võ trang súng ống, đèn pin, rọi thẳng vô mặt nó. Vài ba cánh tay xúm lại trói quặt hai cánh tay nó ra sau. Tên công an ấp nói to:
    – Mày bị bắt vì tội đồng lõa ăn cắp xe đạp.
    Chưa kịp định thần thì đám người đã kéo nó đi ra khỏi căn chòi. Quay lại, nó chỉ còn thấy mờ mờ bóng dáng vợ nó đứng vịn cửa nhìn theo, tiếng đứa con trai khóc ngằn ngặt sau lưng. Đó là hình ảnh và âm thanh cuối cùng nó mang theo trong những năm tháng tù đày.
    Khi bị chuyển lên công an huyện hỏi cung, nó mới biết rằng, đêm hôm đó, thằng bạn cao lớn đi chung với nó, ăn trộm một chiếc xe đạp, bị người ta phát giác và đuổi theo, phang cho một đòn gánh té lăn xuống đường. Bị đánh đau quá, hắn hèn nhát khai bậy ra nó là đồng lõa, mong người ta thương tình mà bớt đánh đập. Ngay trong đêm, công an xã, ấp đến tận căn chòi bắt nó đi dù thật sự nó không hề đi ăn trộm.
    Sau một ngày bị hỏi cung, bị đánh bầm giập, dù không nhận, nó cũng bị bắt ép phải ký giấy nhận tội, còn không thì bị tra tấn dã man. Nó bị tống vào một phòng tạm giam ẩm ướt, hôi hám, nóng bức, nhung nhúc những người tù khác, đủ thành phần. Nó nghĩ chắc đây là đoạn cuối của cuộc đời mình. Vợ con nó sẽ ra sao? Nó không dám nghĩ tới. Trời ơi là trời! Muốn khóc mà không khóc được. Muốn gào to lên để trời cao đất thấp hiểu được nỗi lòng nó.
    Quá tuyệt vọng, nhìn quanh, nó thấy một chai cồn xức ghẻ của một bạn tù vừa được người nhà thăm nuôi. Nó chộp lấy, mở nút chai, uống liền một hơi cạn sạch. Nó lăn ra nền phòng giam, tay chân co giật, dãy dụa, đau đớn, la hét kinh hoàng, mũi, miệng sùi bọt trắng, mắt trợn trừng như con chó ăn phải bã thuốc độc. Có tiếng la kêu cứu, tiếng cửa phòng giam bật mở, người ta khiêng nó ra ngoài và vất nó nằm cạnh phòng hỏi cung.
    Người ta cậy miệng và đổ nước vào. Nó sặc sụa, vừa ho vừa khóc, nước mắt lẫn nước bọt dàn dụa ướt cả khuôn mặt. Nó cảm thấy ruột gan bị thiêu đốt, như đứt ra từng đoạn, đau đớn oằn oại; một cảm giác nóng kinh khủng chưa bao giờ nó trải qua, vẫn cứ chạy rần rật toàn thân. Người ta để mặc cái thân hình gầy gò của nó nằm rên la thê thảm như vậy cho đến lúc kiệt sức, nó chỉ còn thều thào qua hơi thở yếu ớt. Bọt nước miếng vẫn tràn ra hai bên khóe mép như bọt xà bông.
Nó ước ao, nó van lạy, nó cầu xin cho được chết ngay lập tức để khỏi phải kéo dài cực hình khủng khiếp này, để nó không còn phải nghĩ đến tình cảnh vợ con nó hiện giờ ra sao. Đầu óc nó mê đi, lẫn lộn mơ với thực. Những hình ảnh hỗn độn, lần lượt lướt qua tâm thức nó trong im lặng sâu thẵm. Một tấm màn đen sụp xuống. Nó chìm vào hôn mê.
    Lúc mở mắt, nó thấy mình nằm ở góc phòng giam cũ. Tiếng ngáy đều của các bạn tù lẫn tiếng ho khan của ai đó. Nó biết mình còn sống. Ruột gan nó vẫn còn buốt rát như ai xát muối bên trong, tuy không còn nóng bỏng, nhưng nó thấy cồn cào, nhộn nhạo như có ai vẫn đang cào cấu trong bao tử. Nó muốn ngồi dậy, nhưng cơ thể không còn sức. Cuối cùng nó lấy hết sức bình sinh, chống hai tay ngồi dựa vào tường, mắt nhắm nghiền.
    Người ta đưa nó ra trại cưỡng bức lao động. Nó không biết tin tức gì của vợ con và cũng chẳng ai đi thăm nuôi nó. Nó sống như một cái xác không hồn. Ngày đi phá rừng làm rẫy, tối về nó không nói chuyện và không kết bạn với ai cả. Người ta thấy nó hay ngổi nói lảm nhảm một mình, cặp mắt nhìn thẳng phía trước nhưng không thấy ai. Được cái nó rất hiền lành, chẳng làm phiền ai; người nào được thăm nuôi, cho nó miếng đường, cục kẹo, nó nhận và cười hiền lành nói lời cám ơn.
    Rồi hai năm trôi qua. Người ta kêu tên nó, đọc lệnh tha. Hờ hững cầm tờ giấy, nó không vui mà cũng chẳng biểu lộ một nét gì trên khuôn mặt đã già đi trước tuổi. Nó bước ra khỏi cổng trại, cái bị cói trên vai, ngơ ngác nhìn quanh, đứng thẫn thờ suy nghĩ hồi lâu, rồi chậm rãi bước đi. Tiền không có để đón xe, nó đi bộ.
    Hai ngày sau, về đến làng cũ, nó đứng trước miếng đất rẫy ngày xưa, bây giờ um tùm một màu xanh cây khoai mì và cây Điều, cặp mắt lạc thần ngơ ngác. Nó không thấy nhà cũ, không thấy bóng dáng vợ con mình. Nó ngồi thụp xuống đất, khóc nức nở, khuôn mặt nhòe đi, lấm lem vì nước mắt và bụi đường.
    Dân làng dẫn nó đến trước một ngôi mộ đất không ai chăm sóc, mọc đầy cỏ hoang. Người ta kể cho nó nghe, một người đi làm rẫy gần đó, nghe mùi hôi thúi xông lên nặng nề, ông tìm đến căn chòi và thấy hai mẹ con chết nằm kề bên nhau, đứa con trai vẫn còn ngậm vú mẹ. Người ta thương tình, bó chiếu, chôn hai mẹ con cùng một huyệt mồ. Nó ngã vật xuống đất, ngất đi một hồi lâu. Khi tỉnh dậy, cặp mắt nó khô queo, đỏ ngầu những đường gân máu. Nó không còn nước mắt để khóc nữa.
    Hôm sau, nó trở lại với một cái cuốc, một cây thánh giá nhỏ, và một bó nhang. Khói hương nghi ngút bên nấm mộ đã được dọn dẹp sạch cỏ và vun đất ngay ngắn. Nó ngồi kế bên, từ sáng cho đến tối mịt, mắt vẫn ráo hoảnh. Nó thì thầm tâm sự, nó nói nhiều lắm, khi cười, khi nức nở, rồi nó nằm ôm ngôi mộ vào lòng. Sau ngày đó, không một ai trong làng biết nó đi đâu và không một ai thấy nó trở về thăm nấm mộ đất đìu hiu, giờ cỏ đã xanh rêu phủ đầy.
 
– Nguyễn Văn Tới
(1/2024)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.