Hôm nay,  

Đi Tìm Cô Đơn Tích Cực

02/02/202400:00:00(Xem: 3032)

Hình Chính trang nhất_Hanni Vũ ngang
(Ảnh: Hanni Vũ)
 
Thông thường khi nghe hai chữ “cô đơn” chúng ta liên tưởng đến trạng thái tinh thần yếm thế, tâm tư buồn bã, ngày tháng chán chường, thậm chí, cuộc đời trống rỗng. Có lẽ, vì ý nghĩa từ điển của từ vựng này; có lẽ, vì ảnh hưởng văn chương nghệ thuật; có lẽ vì chúng ta đã từ lâu tin như thế, mà không bao giờ đặt một nghi vấn nào.

Đây là định nghĩa của “cô đơn” qua Bách thư toàn khoa Wikipedia:Cô đơn là một trạng thái cảm xúc phức tạp và thường gây khó chịu, đáp ứng lại với sự cách ly xã hội. Cô đơn thường bao gồm cảm giác lo lắng về sự thiếu kết hợp hay thiếu giao tiếp với những cá nhân khác, cả ở hiện tại cũng như trong tương lai. Như vậy, người ta có thể cảm thấy cô đơn ngay cả khi xung quanh có nhiều người. Nguyên nhân của sự cô đơn rất đa dạng, bao gồm các vấn đề về xã hội, tâm thần, tình cảm và các yếu tố thể chất.

Các nghiên cứu cho thấy sự cô đơn là một hiện tượng phổ biến trong xã hội loài người, hiện diện ở những người đã kết hôn, những người đang có các mối quan hệ, các gia đình, các cựu chiến binh, và ngay cả những người đã thành công trong sự nghiệp. Sự cô đơn là một chủ đề văn chương được khám phá trong suốt chiều dài lịch sử con người từ thời cổ đại. Sự cô đơn cũng được miêu tả như một nỗi đau tâm lý, và cũng là cơ chế thúc đẩy một cá nhân tìm kiếm sự kết nối xã hội. Sự cô đơn thường được định nghĩa trong mối liên hệ của một người với người khác, cụ thể hơn là "một trải nghiệm khó chịu xảy đến khi mạng lưới quan hệ xã hội của một người bị khiếm khuyết trên một số phương diện quan trọng.”

Định nghĩa trên bao gồm khá đầy đủ ý nghĩa và phạm vi của cô đơn từ môi trường cá nhân cho đến xã hội, một cách tâm lý và khoa học. Nhưng cô đơn ở đây như một luồng gió lạnh, một cơn mưa, một trận bão, đôi khi là trận động đất… kéo đến và chúng ta sẽ phải gánh chịu. Nếu mưa lớn thì che dù, nếu bão mạnh thì trốn dưới gầm bàn, nếu động đất thì chạy ra giữa chỗ trống, nhảy qua nhảy lại tránh đường nứt… con người thụ động trước cô đơn. Hãy gọi tên loại cô đơn này là ‘cô đơn tiêu cực.’

Loại cô đơn này có thể nói là bẩm sinh. Nó hiện hữu trong nội tâm và chờ chực cơ hội để lộ diện. Khi chúng ta không hài lòng đời sống; khi thua thiệt, thất bại, mất mát; khi cảm nhận được bản chất vô lý của hiện sinh; khi hiểu ra kết quả vô nghĩa của tồn tại; vân vân; cô đơn xuất hiện. Nó tạo ra trạng thái từ buồn bã cho đến trống vắng, từ suy nhược cho đến bệnh tật. Loại cô đơn này có hại nhiều hơn có lợi, nhưng lại được các nghệ sĩ ca ngợi cái bóng dáng đẹp đẽ, cái cảm xúc lãng mạn, khiến chúng ta gần gũi và thân thiện với cô đơn tiêu cực. Hầu hết mọi người đểu cảm thấy thích thú, thi vị, khoan khoái với một chút, đừng quá nhiều, cảm giác cô đơn. Kể cả, giả vờ cô đơn cũng cảm thấy được ngưỡng mộ.

Nếu đã có cô đơn tiêu cực, thì phải có cô đơn tích cực. Nó là gì? Tại sao ít nghe ai nói đến?

Trước hết, có thể hiểu cô đơn tích cực là cảm xúc, cảm giác, trạng thái, tâm tư ngược lại với với cô đơn tiêu cực.

Không đúng. Bản sắc cô đơn luôn luôn là như vậy, bao gồm buồn bã, chán chường, trống rỗng như nhà thơ Huy Cận đã kêu lên: “Chiều ơi, hãy xuống thăm ta với! Thiên hạ lìa xa đời trống không.”

Hành động của con người vừa đối diện vừa cưu mang cô đơn tạo ra tiêu cực hoặc tích cực. Nói một cách khác, cô đơn tích cực là cảm xúc, cảm giác, trạng thái, tâm tư khi hành động ngược lại, chống lại cô đơn tiêu cực.

Không đúng hết. Chỉ đúng một phần.

Hầu hết trong mọi trường hợp, làm ngược lại, chống đối, tranh đấu, vân vân, đều tổn hao sức lực và tâm trí và sự thành công ít lớn lao. Những bậc thượng thừa biết lợi dụng sức mạnh của đối phương để tạo sức mạnh cho bản thân. Như Thái cực quyền, dùng lực đối thủ để đả thương đối thủ. Như Triệt quyền đạo của Lý Tiểu Long, biến sức, ra tay sau mà trúng trước. Như chị tôi mượn sức của “slow cooker” để nấu bún bò, bánh canh, cà ri, vân vân, vừa xem phim tập vừa có món ăn ngon. Như chúng ta biến sức iPhone mà tung hoàng ngang dọc trên không gian ảo. Mượn sức, biến sức là ý niệm khôn ngoan mà từ cổ đại ai đó đã nghĩ ra, và giờ đây, hầu hết mọi hành động thông minh đều là mượn sức hay biến sức.

Bạn cứ quan sát hai tấm hình đại diện bên dưới, sẽ nhận ra: 1- hành động tiêu cực, lấy dù che mưa và 2- hành động tích cực, mượn dù bay theo gió.

Hình 2
Ảnh Pixabay
 
Image by Mohamed Hassan from Pixabay
Ảnh từ Pixabay
                       
Cô đơn tích cực là gì?

Một người tù bị biệt giam và một thầy tu vào hang động sống một mình có gì khác nhau, cả hai đều cô độc và cô đơn trong bóng tối. Sự khác biệt rõ rệt là sự lựa chọn. Người tù không được quyền lựa chọn, trong khi thầy tu thì tự ý tìm đến cô đơn.

Cô đơn tích cực bắt đầu từ ý thức chọn lựa.

Đông lực thúc đẩy tìm đến cô đơn tích cực, có lẽ, đã có từ cá tính và vô thức. Có thể đến từ nhận thức hiểu biết, có thể bừng tỉnh từ kinh nghiệm như một “mặc khải.”, có thể được bậc cao nhân điềm chỉ, có thể đọc từ sách báo rồi nghiệm ra “chân lý.”  Người quyết định bước vào trạng thái hoặc bối cảnh cô đơn tích cực, sẽ hành động với cảm xúc hài lòng, hân hoan, với cảm giác thích thú như một kẻ phiêu lưu tìm báu vật. Người đó có thể không có kế hoạch, nhưng có mục đích rõ rệt. Người đó chọn cô đơn để đánh đổi những thứ gì cao đẹp hơn. 


Loại cô đơn này dường như là thứ gì cần thiết để nảy sinh những thứ khác giá trị hơn. Những nhân vật cao cả như Chúa Jesus, nhập cô đơn 40 ngày trong vườn cây Dầu trước khi nhận gánh chịu thảm hình cứu chuộc. Phật Thích Ca nhập cô đơn dưới cội Bồ đề 49 ngày để đạt đến thông tuệ. Nhiều nhà văn đi tìm những nơi yên tĩnh, cô đơn, để sáng tác những tác phẩm trường sinh. Các triết gia thường là những người cô đơn, những nghệ sĩ cũng vậy. Các nhà bác học vùi mình trong phòng thí nghiệm. Vân vân. Cho dù đời sống bận rộn như thế nào, cho dù ở giữa chợ đời náo nhiệt ra sao, những người tự chọn sống với cô đơn vì mục đích làm cho đời sống tốt đẹp hơn hoặc để tập trung năng lực thực thi điều gì đó mà họ khao khát.

Trong những trường hợp này, về mặt xã hội, cô đơn cho phép chủ thể xa cách đám đông, để hàng ngày không bị vướng bận bởi những phức tạp làm hoang mang hay giảm thiểu sức sống. Cho phép chủ thể chấp nhận chỉ trích, phê phán, thậm chí là chửi rủa của những ai không vừa ý việc làm riêng rẽ của chủ thể

Về mặt tâm tư, cô đơn cho chủ thể được bình an, thời giờ, và sự tập trung vào công việc.Trong hoàn cảnh này, cô đơn mang lại cho chủ thể niềm vui, thoải mái và phát triển óc sáng tạo. Niềm vui này đối với chủ thể, cao hơn những loại niềm vui khác, kể cả những niềm vui tinh thần. Mặc dù, chưa hoàn tất công việc hoặc điều gì ước muốn, nhưng chủ thể cảm thấy thỏa mãn và muốn tiếp tục đeo đuổi. Sartre nói, hãy làm công việc hết sức nhưng đừng hy vọng. Ý niệm này cần thiết để suy nghĩ. Không hy vọng tức là quan tâm đến thành hay bại mà chủ yếu làm hết những gì cần làm. Cũng có nghĩa, không cần thiên đàng hay địa ngục, chỉ cần chú tâm đến hiện sinh.

Mượn như Thái cực quyền, biến như Triệt quyền đạo; mượn và biến nỗi buồn cách ly, nỗi mỏi mệt chung đụng với người xung quanh, nỗi trống trải phi lý vô nghĩa, thành một thế lực giúp đả thông công việc hoặc lý tưởng đang nhắm tới.

Trong tác phẩm “Zarathustra Đã Nói Như Thế”, Nietzsche gửi một trong vài thông điệp là sức mạnh của ý chí, mà về sau ông đã hoàn tất thành học thuyết “Ý Chí Thành Quyền Lực” (Will To Power). Một thông điệp khác là con người như một cây cầu bắt từ thú vật lên đến ‘người siêu phàm’ (over man). Con người sẽ phải cưu mang và đối diện với cô đơn, ít hoặc nhiều, nhẹ hoặc nặng, không ai tránh khỏi. Đối với Nietzsche, với mãnh lực của ý chí, con người có thể tạo ra quyền lực để vượt mọi cảnh ngộ khó khăn, trong đó có “cô đơn tiêu cực.” Nói theo triết gia này, ý chí có khả năng biến cô đơn tiêu cực thành cô đơn tích cực.

Phẩm chất của cô đơn.

Ảnh từ Unplash
Ảnh từ Unplash
Nhưng trước khi lên đến người siêu phàm, người cây cầu cần phải biết rõ con người. Trong khái niệm này, cô đơn là một món quà, có thể gọi là ân sủng, đã cách ly tâm và trí của chủ thể ra khỏi thế giới nhiễu nhương, để người này có cơ hội nghiền ngẫm tìm hiểu về mình, về cái ‘tôi’, về những gì mà bình thường đời sống che mù không nhìn thấy. Không có khám phá nào cần thiết hơn là tự khám phá bản thân. Mỗi ngày có bao nhiêu lần mỗi người tự khám phá về mình? Càng hiểu mình càng nhiều càng hưởng thụ được phẩm chất của cái cô đơn.   
 
Phẩm chất của cô đơn tích cực là tuy cô đơn nhưng không cô đơn, vì con người cô đơn này dù lặng lẽ, dù xa cách, dù một mình, vẫn luôn luôn trò chuyện với chính bản thân. Những thắc mắc, những thao thức, những biện giải, những lý luận, những tranh cãi, vân vân, liên tục xuất hiện bên trong nội tâm, tạo ra một thế giới riêng biệt, thành thật, sống động, và có thể nói là thích thú. Ở quan điểm này, cô đơn tích cực hoàn toàn ngược lại với cô đơn tiêu cực. Những cuộc tự trò chuyện của cô đơn tiêu cực thường dẫn đến trạng thái mệt mỏi, suy nhược, xuống tinh thần.
 
Trong khi những cuộc tự trò chuyện của cô đơn tích cực chẳng những mang lại sự thích thú mà còn luyện tập năng lực tưởng tượng và vô thức. Người cô đơn tích cực gần gũi và náo động với tưởng tượng. Những hình ảnh, những khúc phim sinh hoạt, những ý nghĩ bất ngờ biến hóa xuất hiện tấp nập theo từng chủ đề trầm tư hoặc theo những ý nghĩ ngẫu nhiên. Khả năng tưởng tượng được hư cấu thành những sáng tạo, thường khi là ngoạn mục. Được thực tập hàng ngày và có khi vào tận chiêm bao, khả năng tưởng tượng bành trướng. Nghĩa là, vô thức nhạy cảm hơn, được kích thích để cung ứng dữ liệu cho ý thức, tạo điều kiện và năng lực cho sáng tạo thành hình.

Quá trình này được chứng minh qua thời gian và khả năng tư duy của triết gia, khoa học gia, nhà văn, nghệ sĩ, nhà thiết kế, kỷ sư, nhà quảng cáo thương mại, chính trị gia, vân vân, và những người trong các ngành nghề cần phát minh và sáng kiến.

Những nghệ sĩ luôn luôn là tình nhân của cô đơn tích cực. Nó mang đế cảm xúc và hiệu quả sáng tạo để cấu thành tác phẩm. Nhà thơ Huy Cận dù than thở, “chiều ơi hãy xuống thăm ta với …” nhưng thật ra ông rất thích thú, say sưa với nỗi trống vắng đó, và khi làm xong bài thơ “Tâm Sự”, ai biết được ông sung sướng đến ngần nào?
 
Ngu Yên

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.