Hôm nay,  

Cái thẹo song sinh

09/05/202414:33:00(Xem: 2967)
Truyện

Nam Bộ

Đời người không bình lặng mà luôn dậy sóng, lắm khi mưa lũ bão bùng, một khi nó đi qua thì ta mới thấy, mới thưởng thức được nét đẹp của hồ thu, của lá vàng bay lượn khắp nơi.
    Thuở đó, quê tôi ở vùng sông đồng bằng sông nước, nên nhà cửa được xây cất gần con sông hay kinh rạch để có nước dùng trong sinh hoạt hằng ngày; nếu bắt buộc phải có nhà ở nơi xa sông rạch thì phải có nhiều cái lu lớn để chứa nước mưa và phải đào thêm giếng để lấy nước.
    Khi tôi học hết lớp ba trường làng, rồi ra chợ quận học tiếp lớp nhì (lớp 4), tôi ở nhà ngoại, khu chu vi vừa mới thành lập, cách xa sông lớn lại không có giếng nước. Mỗi buổi chiều tôi phải ra sông gánh nước với cặp thùng nhỏ (ngoại mua đặc biệt cho tôi); đoạn đường từ nhà ra sông khoảng 400 mét, thời gian đầu thật là vất vả, sau đó thì rất dễ dàng là dịp để tôi tập thể dục, nhìn người qua lại thật là vui vẻ.
    Một hôm tôi mải mê xem hai người đang đấu cờ tướng, với thế cờ "pháo đầu mã đội" thật là hấp dẫn... quên chuyện đi gánh nước. Trước khi đi ngoại còn căn dặn: hôm nay nhà có việc, con phải đi gánh nước cho nhanh chớ có la cà, bà đợi con ở nhà ăn cơm. Khi nhớ lại lời ngoại dặn quay qua lấy cặp thùng chạy nhanh ra bờ sông, nhưng vì quá vội vàng làm cho cái đòn gánh đứt dây, rớt cái thùng xuống nước, tôi sợ cái thùng bị nước cuốn đi, tôi nhảy theo... nhưng đâu ngờ nước cạn, nên cái thùng nằm chờ sẵn để cắt đứt một đường dài ống chân của tôi, làm tôi té luôn xuống nước, cũng may mắn, có người quen đứng gần đó khiêng tôi đi băng bó vết thương.
    Có lẽ vết thương do cái đòn gánh đứt dây, nên đôi chân tôi không được cân bằng vững vàng như xưa, một hôm tôi đang đứng trên cái cầu ván trước nhà để nhìn người ta đì qua lại, bỗng nhiên mất thăng bằng té xuống, cắt đứt một đường dài bên chân kia. Sau khi lành lặn, hai ống chân tôi có hai cái sẹo song song, giống như hai anh em song sinh.

Đạn bay, pháo nổ đì đùng
Kiếp người ngắn ngủi có gì vấn vương
Cái tình, cái nghĩa mến thương
Đầu môi, chót lưỡi bụi đường cuốn đi
 
Sau ngày đổi đời tôi được đưa vào Chi Lăng, Vườn Đào, Bắc Hoà, chúng tôi gặp lại nhau, có thời gian để tính sổ: nhiều sư huynh sư đệ đã vĩnh viễn ra đi, người thì mang đầy thương tích, nhưng đâu có thuốc thang từ thuốc trụ sinh, hay thuốc giảm đau, và những vết thương cũ có dịp làm cho chúng tôi đau đớn thêm. Một hôm tình cờ, một sư huynh nhìn "cái thẹo song sinh" trên ống chân của tôi, gặng hỏi:
    - Bị thương hai chân, ở trận chiến nào vậy?
    Tôi thành thật trả lời:
    - Do tôi hiếu động, nên có hai cái theo nầy, tôi tự gây ra.
    Họ không tin, nói là tôi nói dối. Năm đó, vào những ngày lễ lớn xảy ra nhiều biến cố cho sư huynh đệ chúng tôi.
    Ở cuối "sam" là cái ụ canh gác ngày xưa, nay là nơi biệt giam; một người bạn cho biết là đã nhìn thấy hai người quản giáo kéo lê một người bị biệt giam, dường như đã chết! Hôm trước, nghe nhiều tiếng súng nổ ở phía hàng rào kẽm gai, dường như là sư huynh, gốc là dược sĩ quân y, vượt trại. Sau đó là liên đội họp, để học tập chánh trị.
    Thường ngày chúng tôi phải lao động 8 giờ, một hôm tôi được "tuyển chọn" đi tâp văn nghệ, có nhiều màn trình diễn "sửa dáng ưỡn ẹo" làm tôi mệt nhoài. Sau một thời gian tập văn nghệ tôi xin nghỉ, thế rồi cả tổ, nhóm họp lại, tra hỏi tôi vì sao xin nghỉ? Có ai xúi giục hay có lý do nào khác... Tôi chỉ trả lời là tôi quá mệt, nhưng họ không tin, và mỗi ngày từ 7 giờ đến 10 giờ tối, là họp kiểm điểm tôi. Anh em quá mệt mỏi, một hôm sư huynh Ắc Thành Đôn đến gần tôi than phiền:
    - Anh xin quì lạy em, làm ơn trở lại tập văn nghệ giùm anh! Họp hoài anh em chịu hết nổi rồi.
    Sau đó cán bộ đội là Ba Chu gọi riêng tôi đi tra vấn, tôi vẫn trả lời:
    - Tôi quá mệt mỏi, xin nghỉ.
    Anh ta nhìn xuống thấy "cái sẹo song sinh" dài trên ống chân tôi rồi hòi:
    - Có phải do hai cái thẹo nầy mà anh không đủ sức để tập văn nghệ, tôi sẽ đem thuốc anh uống hay là anh có chuyện gì khó nói ra hãy kể cho tôi nghe, tôi sẽ giúp anh? 
    Tôi đáp:
    - Không có gì, vết sẹo nầy tôi có từ lúc còn nhỏ, chớ không phải do chiến thương gì cả.
    Sau một thời gian dài lao lý, chúng tôi được thả ra, về quê chúng tôi phải vất vả mưu sinh, hòng bù đắp một phần nào những cực nhọc mà gia đình đã thăm nuôi. 
    Khoảng năm 1990, người bạn Như Chiêu quê ở Thốt Nốt, đã nạp đơn đi Mỹ theo chương trình HO, đang chờ ngày phỏng vấn, nên tâm trạng rất thoải mái, đang ngồi trước cái sạp nhỏ bán hàng ngoài chợ của gia đình, bỗng nhiên thấy một người mang quân phục của QĐND, bộ tướng xác xơ như người vừa bị thất sủng thẫn thờ lướt qua, trông quen quen; Như Chiêu chạy theo để nhìn kỷ xem là ai? Thật là bất ngờ, người đó là Ba Chu, cán bộ quản giáo ở Chi Lăng. Ba Chu cũng nhìn ra Như Chiêu, Như Chiêu mời anh ta đi ăn và tặng một ít quà với lời cám ơn vì đã đối xử tốt với những người tù cải tạo chúng tôi, không giống như những cán bộ khác.
    Ba Chu cho biết là sẽ về lại Bắc, quê nhà và ở luôn ngoài đó; hôm nay anh đảo vòng qua nhiều nơi để tiễn biệt người dân miền
Tây sông nước, làm anh nhớ lại chuyên xưa, hỏi thăm Như Chiêu về người có "cái thẹo song sinh" bây giờ ra sao?
    Như Chiêu đáp:
    - Nó vẫn còn chạy bộ mỗi ngày.
    - Hả?
   
                                          * * *
 
Gần 50 năm đổi đời, hơn 30 năm sống ở xứ lạ quê người, mỗi năm vào những ngày Tháng Tư, chuyện xưa bỗng nhiên sống lại, sư huynh sư đệ chúng tôi gọi nhau để "kiểm tra quân số", xem ai còn, ai mất. Như Chiêu vẫn đặt câu hỏi xưa về "cái thẹo song sinh", đã bị thương ở trận chiến nào, sao không khai báo là TPB để có thêm quyền lợi?
    Thiệt là hết ý cho mấy ông, mấy bà, tôi đã thật thà khai báo nhiều lần mà vẫn không tin! 
     
Bình minh, thoáng chốc đã chiều tà
Mười người, mất bảy chỉ còn ba
Hai nằm bệnh, một lết la
Thất thập, vẫn khoẻ đó là trời ban
Người ơi xin chớ buồn, than
Trăm năm ngắn ngủi, bạn vàng chờ ta
Xin đừng, ở đó la cà 
Chén trà, chén rượu, tà tà chưa đi.

 

– Y Châu

  

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.