Hôm nay,  

Nàng Tiên Cá Mắc Cạn

14/06/202400:00:00(Xem: 3248)
 
Người con gái ngồi bất động như thế đã từ lâu lắm; dễ chừng có cả tiếng đồng hồ rồi. Trời biếc xanh, lác đác những khóm mây bông gòn trắng nõn, biển xanh thẫm phía trước, sóng dạt dào xô nhau vỗ vào ghềnh đá tung bọt trắng xóa dưới chân. Tất cả như cùng cuốn hút nàng vào cái bao la mịt mùng bí mật. Ở một góc nhìn từ bên sườn dốc đá, thấy nàng nhạt nhòa trong nắng như một phần của núi non đã hóa thạch từ ngàn năm trước. Người con gái, như tượng đá, mong hoài một điều không bao giờ xảy ra; một ước mơ không bao giờ thành sự thực; hay nàng đứng chờ trông một người đã mịt mù bóng chim tăm cá?

Khi tôi đến, nàng vẫn như một hình hài không có thật; một phần của núi non. Mái tóc dài bay xõa tung trong gió biển, bộ quần áo bà ba phần phật bay, dán ép vào thân thể tượng đá với ngực nhỏ, vai thon là tất cả những gì còn sống. Tôi ho khẽ một tiếng trong khi nhẹ nhàng và cẩn thận nhón từng bước chân trên những phiến đá xanh màu rêu cũ. Người con gái vẫn lặng lẽ im lìm như thể nàng chưa bao giờ có thật. Ở phía này của núi đá, tôi chưa thể nhìn thấy rõ được nét mặt nàng, nhưng những sợi tóc nàng thì hằn sắc nét đen trên nền trời xanh ngắt. Có lẽ gió biển mang theo tiếng sóng dào dạt đã át đi tiếng tôi ho nhẹ để đánh thức nàng. Tôi lặng lẽ đứng lại trên phiến đá đen xám trơ trọi bên bụi cây có những bông hoa dị kỳ màu vàng nhạt. Từ đây đến chỗ nàng đứng, chỉ còn hai bước ngắn. Tôi đã có thể nghe được tiếng vải áo quần nàng no gió vỗ vào thịt da nghe phần phật. Tôi có thể ngửi được mùi hương của tóc lồng trong mùi của biển nồng nàn muối mặn. Và tôi tưởng chừng nghe được tiếng thở của nàng lẫn trong tiếng ca ngàn đời của biển.

“Cô đứng đây từ sáng đến giờ, có thấy cánh hải âu nào không?” Tôi nói. Nghe giọng mình bị gió cuốn đi.
Người con gái lắc đầu, hai tay vẫn ghì chặt mép vải che giấu vụng về. Tôi kể lể, “Ngày nào cũng nhìn cô đứng trên dốc đá này, riết rồi tôi có cảm tưởng cô là một phần của núi non, cũng có thể cô là một nàng tiên cá mải miết lên đất liền rong chơi, lúc trở về ghềnh đá, ai đó đã lấy trộm mất phần đuôi cá. Vì vậy nàng tiên cá mới đứng hoài nhìn ra biển, cố tìm một phần đời đã mất.”

“Ông kể hay quá à!”

Nàng reo mừng, nụ cười thắp sáng đôi môi màu hồng mịn ướt.

“Ông kể tiếp đi. Tôi thích nghe chuyện cổ tích.”

Tôi phấn khởi, “Đuôi cá mất rồi, cô không thể trở về với biển cả được nữa. Cô sẽ phải ở lại đất liền, với núi non, cây cỏ; với suối rừng, sông rạch. Nàng tiên cá ở lại với đất liền để làm đẹp núi đồi, đất đai. Nàng tiên cá ở lại với loài người để điểm trang cho cuộc đời.”

“Ông nói chuyện cứ như thơ vậy,” nàng thật thà khen, đôi tay vẫn không rời hai mép áo. “Nhưng ông có tin rằng ở đâu đó dưới biển có những nàng tiên cá không?”

“Tôi mong là có, thế còn cô?”

Nàng khẽ gật đầu, mắt nhìn xa xăm ra biển.

“Ví dụ như cô là nàng tiên cá và bây giờ người ta đem đuôi cá trả lại cho cô, cô có trở về với biển nữa không?”

Người con gái khẽ lắc đầu.

“Sao vậy?” Tôi thắc mắc.

Nàng lại lắc đầu và mím chặt đôi môi như ngậm một câu trả lời không thể nói ra.

Mặt trời đã lên cao, rạng rỡ bên góc biển phía sau đảo. Nắng lao xao trên sóng nước lấp lánh. Biển xa ngút ngàn vẽ ở cuối chân trời một đường viền xanh thẫm. Chúng tôi đột nhiên cạn đề tài. Ngoài xa, không một cánh buồm; không một bóng chim bay, chỉ có gió và sóng dạt dào. Tóc nàng bay rối tung trong gió.

Bất chợt, nàng quay về phía tôi, “Ông về đi!”

Tôi tròn mắt ngạc nhiên, “Còn cô?”

“Kệ tôi!”

Nàng mím môi – vẫn cái mím môi quen thuộc – nhắc lại câu nói ngắn, bằng giọng dịu dàng, nhưng đầy quyền uy, “Ông về đi.”

“Tại sao?”

Nàng vẫn mím môi, “Về đi.”

“Cô không về sao?”

“Tôi ở lại đây.”

Tôi thọc hai tay vào túi quần, rùn cao hai vai, nhìn sâu vào mắt người con gái, “Cô là cả một cõi huyền bí, lạ lùng.”

“Ông xạo!”

Tôi đổi đề tài, “Tên cô là gì nhỉ?”

Nàng trải tia nhìn bối rối lên những bông hoa màu vàng nhạt đu đưa trong gió, ngang bướng lắc đầu.

“Tôi yêu những buổi sáng như hôm nay,” tôi ngập ngừng, chậm rãi kể lể. “Những buổi sáng tưởng chừng chỉ có trong cổ tích. Tôi yêu biển. Thuở nhỏ tôi sống gần biển, lớn lên về sống trong thành phố chật chội, gò bó, tôi cảm thấy tù túng vô cùng. Tôi thèm những khoảng bao la của trời, của biển. Đứng trước biển cả mênh mông, thấy con người nhỏ nhoi, tự nhiên muốn thả trôi hết mọi tị hiềm, bon chen. Mai sau, nếu có thể được, tôi cũng sẽ tìm về sống gần biển. Cô có thích biển không?”

Nàng lắc đầu, hỏi bằng giọng mềm như hơi thở, “Ông có tin rằng ở đâu đó dưới biển, có những nàng tiên mình cá đang bị giam cầm không?”

Tôi gật gù, “Có thể lắm chứ!”

“Tội nghiệp!” Giọng nàng xa vắng, nghe trầm như một tiếng thở dài.

“Ừ, tội nghiệp,” tôi phụ họa.

“Nếu tình cờ ông bắt được phần đuôi của nàng tiên cá, và nàng năn nỉ ông trả lại để nàng có thể về với biển, ông có trả không?”

Thấy tôi ngập ngừng, nàng nhắc lại câu hỏi, “Hở, ông có trả không?”

“Có thể…”

“Tôi ghét cách nói chuyện của ông.”

“Thì trả.”

Trong một thoáng, tưởng chừng tiếng dạt dào của biển, tiếng xào xạc của lá cây oằn mình trong gió lắng xuống để chỉ còn vang vọng tiếng nàng trong và thắm đượm nỗi buồn phiền mang theo từ một hệ lụy nào xa tít mù khơi. Rồi gió lại lồng lộng và biển lại xôn xao điệp khúc muôn đời rì rào, xa vắng.

Chợt nàng nói, “Ông về đi.”

“Về đâu bây giờ?”

“Đâu cũng được.”

Tôi lơ đãng nhìn trời, “Tôi chờ cô cùng về.”

Người con gái lặng lẽ lắc đầu, “Tôi chưa về đâu.”

“Tôi cũng vậy,” tôi quả quyết.

“Ông về đi mà!” nàng rầu rĩ,

“Tôi sẽ theo cô về.”

“Không được đâu!”

“Cô thật là lạ lùng.”

Tôi nhìn vào mắt, vào môi, vào những sợi tóc của người con gái xõa bay trong gió. Nàng lặng thinh. Tôi tiếp, “Sáng nào cô cũng lên đây một mình, nhìn biển hoài không biết chán. Cô thật là hay. Tôi không thể nhìn biển hoài được. Chỉ cần nhìn biển chừng mười phút là tôi thấy mình bị cuốn hút vào cõi mênh mông vô tận. Cô không bao giờ thấy chóng mặt sao?”

Người con gái lắc đầu.

“Cô là một phần của biển cả.”

Nàng bất chợt xoay người ra biển khơi, như thể câu nói của tôi làm nàng bối rối, mắt nhìn thăm thẳm vào vùng xanh của biển và trời vô tận. Tóc nàng bay tung, rối rắm như những sợi tơ phiền muộn.

“Cô có một lời hò hẹn nào đó với biển khơi.”

Người con gái lặng thinh.

“Hoặc giả cô đợi chờ một điều gì ngoài khơi; phía bên kia bờ…” Vừa kể lể tôi vừa nhón bước trên những phiến đá xám, phủ lam nham rêu xanh, đến bên cạnh người con gái, nhìn ra khơi với nàng. “Tôi nghĩ là cô nghe được tiếng thì thầm của ai đó lẫn trong tiếng sóng rì rào. Tôi tin là cô chờ đợi ai đó một ngày kia thả buồm lướt sóng cặp vào bờ hải đảo này. Người đó, một chàng hoàng tử của huyền thoại, sẽ rước cô về ra mắt nhà vua và mẫu hậu…”

Nàng quay đầu nhìn tôi. Trời ơi, đôi mắt nàng đẫm lệ. Hai giọt nước mắt trong vắt trào ra, từ từ lăn trên má, đậu xuống khóe đôi môi mím chặt. Có một cái gì đó siết vội lấy trái tim, làm tôi hoảng hốt, “Ơ… xin lỗi… tôi không cố ý…”

Người con gái vẫn lắc đầu. Tôi chưa hết bối rối, “Có lẽ tôi làm cô buồn. Cho xin lỗi…”

Loay hoay với đôi tay thừa thãi và một câu xin lỗi trống rỗng, tôi bối rối nhìn ra biển, tìm kiếm một cánh chim. Biển vẫn vắng ngắt tận cùng. Nhìn biển chán, tôi xoay qua nhìn người con gái. Nhìn ngang, đôi mi nàng cong đặm nét vẽ trên màu trời. Những giọt nước mắt lấp lánh vẫn theo nhau lăn dài trên má.

“Chắc tôi làm cô buồn. Xin lỗi, cho xin lỗi một trăm lần. Được không?”

Nàng lặng thinh lắc đầu.

Bỗng dưng nàng níu áo tôi, kéo về phía nàng, “Đi xuống dưới kia với em không?”

Người con gái, một tay giữ hai mép áo che ngực, một tay níu kéo tôi dò từng bước trên những phiến đá xám phủ lam nham rêu xanh. Tôi như mê ngủ, đi theo nàng như cậu học trò ngoan ngoãn theo cô giáo bước vào lớp học ngày đầu niên học mới. Chúng tôi bước xuống gần bờ đá nơi sóng biển dồn dập đổ vào, tung bọt nước mát rượi. Nơi đây, mùi của biển nồng nàn vị muối.

Người con gái vẫn không buông tay áo tôi, “Ngồi xuống đây với em.”

Tôi ngoan ngoãn ngồi xuống bên nàng trên phiến đá bằng phẳng, do một sự tình cờ nào đó trong quá trình tạo sơn hàng triệu năm về trước, đã được đặt nơi đây cho những đôi uyên ương dẫn nhau tới mà hẹn biển, thề non.

“Em hỏi nhé?”

“Ừ, hỏi đi.”

Nàng buông tay áo tôi, năm móng sắc đan lấy bàn tay tôi. Ánh mắt vẫn xa xăm, nàng nói như năn nỉ, “Trả lời em thành thật nhé.”

“Ừ.”

“Đừng giấu gì cả.”

“Đồng ý.”

“Hứa đi.”

“Hứa.”

“Hứa gì?”

“Thành thật.”

Nàng xoay qua nhìn tôi, bắt bẻ, “Ai hứa?”

“Anh.”

Nàng hài lòng, “Bây giờ em hỏi đây.”

Nàng nói thật nhanh, thật nhẹ như hơi thở, “Anh có nghĩ em điên không?”

Tôi ngạc nhiên nhìn nàng.

“Trả lời em đi!” Nàng nói, mắt vẫn đăm đăm dán vào biển khơi mù mịt.

Bỗng dưng tôi thương nàng quá đỗi, như thương một người tình trẻ thơ: bé nhỏ và tội nghiệp.

“Sao lại hỏi câu đó?”

“Ai biết!”

Tôi bóp nhẹ bàn tay người con gái; bàn tay với năm ngón thon và mỏng manh, “Đừng nghĩ tới điều đó.”

Nàng buồn rầu, “Người ta nói em điên.”

“Nói bậy.”

“Thật mà.”

“Đừng thèm tin người ta.”

Nàng lặng thinh.

“Đừng thèm tin người ta, nghe.”

“Thì không tin, em mới hỏi anh đây.”

Tôi gật gù, “Ừ, vậy tốt. Tin anh đủ rồi.”

Nàng xoay qua, nhìn tôi thật gần.

“Em tin anh.”

Tôi bối rối, đọc không nổi những lời dặn dò, thở than, mời gọi trong mắt nàng. Tim tôi bắt đầu đập lỡ nhịp. Tôi chết đuối trong huyền-hoặc-mắt-nàng. Bọt nước vẫn vỡ tung dưới chân, gió vẫn thổi bay tóc nàng trăm hướng. Tôi nói thật ý nghĩ của mình, với nụ cười ngượng ngập, “Em làm anh bối rối.”

Nàng cười; cái cười Bao Tự (mà nụ cười Bao Tự trong truyện kể ra sao nhỉ, có khả ái như nụ cười của nàng không?) “Anh kể chuyện cho em nghe đi.”

Tôi đắm đuối nhìn người con gái, “Chuyện gì bây giờ?”

“Chuyện anh với em.” Người con gái thì thầm.

Tôi thẫn thờ nhìn vào đáy long lanh đôi mắt ướt, “Ngày xưa…”

Bỗng dưng tôi quên hết mọi chuyện cổ tích ngắn, dài. Dường như những ngón tay tôi nắn nhè nhẹ từng ngón tay nàng; những ngón tay tôi vuốt ve vụng về, cà cọ trên những móng dài chuốt cong. Tôi thất lạc, ngồi nghe tim mình lỡ nhịp, nghe tay mình bối rối và hơi thở mình hao hụt. Như thấm bùa mê, tôi lẩm bẩm, “Ngày xưa…”

Mắt nàng chở đầy nỗi hăm hở, đợi chờ. Dấu vết một nụ cười còn đọng trên môi.

“Ngày xưa…”

“Ơ, chuyện anh với em kìa.” Nàng gỡ tôi ra khỏi cơn bối rối.

Tôi ngập ngừng, “Ừ, nhưng mà biết kể thế nào bây giờ!”

Nàng dễ dãi, “Sao cũng được.”

“Thì đây: có một cô gái hay khóc yêu một thanh niên trên hải đảo…”

Nàng bất chợt dụi đầu vào vai, vào cổ tôi để che giấu nỗi thẹn thùng trong mắt và trên má đỏ hồng. Những móng tay nàng bấu lấy cổ tay tôi như những vuốt sắc loài mèo hoang hung tợn. Như một phản xạ tự nhiên, tôi gục mặt vào gáy, vào tóc nàng. Một tay chịu trận cho nàng cào cấu, tay kia vòng ra sau tấm lưng mỏng, ôm níu lấy vai nàng. Hương của tóc ngạt ngào, cuốn hút tôi chơi vơi, hụt hẫng.

Ma quỷ nào nhập vào tôi, thì thầm trong tóc nàng, “Em là một bài thơ lục bát; là ca dao, là huyền thoại. Em biết điều đó không?”

Nàng dựa lên tôi, trĩu nặng.

“Em đến từ cổ tích…”

Nàng dụi đầu trên mặt tôi, như con mèo nũng nịu. Nàng cọ má vào mặt tôi. Và rồi, tôi hôn nàng. Chúng tôi hôn lên môi nhau miệt mài. Chúng tôi dụi mặt vào nhau khắc khoải. Chúng tôi nghiền nát nhau. Chúng tôi thở chung một nhịp hoảng hốt, hụt hơi. Tôi đọc thầm thơ Thanh Tâm Tuyền trong trí tưởng: Hôn vào môi, vào má, vào răng. Tôi ghì siết vai nàng. Trong khoảnh khắc, tôi đánh mất tôi hoàn toàn. Hơi thở nàng rờn rợn thịt da. Tôi hình dung những vệt gai ốc sần trên da trần nhột nhạt. Tôi rùng mình, nàng rùng mình. Biển khơi nộ cuồng cơn hồng thủy. Sóng bạc quẫy tung bọt trắng xóa bụi nước mờ căm. Biển rút xuống đáy sâu cùng tận; biển dâng lên ào ạt cuốn hút vô vọng. Có loài kình ngư hốt hoảng kiếm tìm. Những con bạch tuộc níu kéo gò siết cuồng điên. Chúng tôi ngã nhoài xuống trên cỏ ướt, chúng tôi lăn lộn dày xéo những bông hoa vàng kỳ dị. Xác hoa vương trên rừng tóc nàng rối nùi. Gió thổi bay tan tác từng cánh hoa nhàu nát. Đồi ngực nàng chênh vênh, tôi trên đỉnh đời, ngã xuống vực sâu mịt mờ tông tích. Tôi mù mịt lối về. Tôi lao đao giữa hư không và ghềnh thác cheo leo và núi đồi hiểm nghèo vô vọng. Tôi gào thét cuồng điên giữa đỉnh trời ngập hương tóc và muối mặn. Tôi nghe nhói đau bờ vai và trước giây hôn mê, còn kịp nghe tiếng hét nàng òa vỡ giữa nộ cuồng của biển; và tiếng nàng – hay tiếng của biển cả – rên rỉ gọi tên một người. Xót xa và tức tưởi.

Như đứa bé nghịch ngợm vừa sơ ý làm vỡ một món đồ gia bảo, hoảng hốt thu nhặt những mảnh vỡ giấu đi trước khi bố mẹ kịp phát giác, tôi cuống quýt gài nút áo cho nàng bằng những ngón tay còn ngậm đầy xúc động. Trong khoảnh khắc, chúng tôi không dám nhìn vào mắt nhau. Manh áo nàng khép hờ, che vuông ngực đầy xớn xác. Tôi dáo dác nhìn quanh. Cảm ơn buổi sáng và dốc đồi còn mê ngủ. Ngày nghỉ, chẳng có ai ra góc đảo hẻo lánh này sớm như chúng tôi. Chỉ có những bụi cây xanh rậm rạp mà tôi không biết tên, với những bông hoa vàng hình dáng dị kỳ, cùng những mỏm đá nhấp nhô làm nhân chứng cho một đổi thay không tên gọi.

Và biển ngoài kia dạt dào ngàn đời sóng vỗ.

Một chút gì đó xuyên qua hồn tôi như sợi chỉ xuyên qua mép vải, nhói lên một chút áy náy, ăn năn có thật. Một cánh hoa vàng nhàu nát vướng trong tóc nàng, tôi gỡ cánh hoa và chải tóc cho nàng bằng thơ Nguyên Sa: Tay anh mười ngón có vừa tóc không? Những sợi tóc ướt rối vì sương sa và hơi nước do sóng biển vỡ tung bên bờ đá. Tôi đỡ nàng ngồi xuống lại trên phiến đá bằng phẳng, thiên nhiên đã đặt sẵn cho những đôi nhân tình. Bậy quá! Thêm một đường kim xuyên mũi chỉ áy náy qua hồn tôi. Cơn hồng thủy đã tan, trận bão biển đã lắng, sóng nước bạo cuồng đã dịu đi, tôi liếc nhìn hông nàng, bắt gặp vết hằn dây thun quần trên da thịt nàng màu đỏ như vết roi thời thơ ấu. Nàng nhìn ra biển khơi, xa vắng. Bàn tay tôi, với những ngón bồi hồi còn run rẩy theo nhịp riêng của từng ngón, đặt hờ trên vai nàng. Tôi quay sang nhìn nàng với muôn ngàn thắc mắc. Khuôn mặt nàng nhìn nghiêng, hằn sắc nét trên nền xanh của trời, như phiến đá tạc dở dang bởi một nhà điêu khắc thiên tài mà đãng trí, đã quên thổi vào đó một đời sống linh động.

Người con gái ngồi bất động nhìn ra biển. Tôi nắn nhẹ vai nàng. Tội nghiệp! Có lẽ nàng xấu hổ và ân hận đến tê cứng người như tượng đá. Đôi mắt trẻ thơ này, đôi môi mịn ướt này, mới chưa đầy một phút trước đây, còn ham hố, loạn cuồng, mê muội; bây giờ xa xôi như chưa hề có thật. Tôi bỗng dưng thấy mình tội lỗi và gian manh. Nhưng còn nàng? Ừ, nàng thật là tuyệt vời. Nàng dựa ép vào tôi và tôi lặng lẽ ôm siết lấy vai nàng. Chúng tôi cùng nhìn ra biển khơi, lắng nghe tiếng sóng và gió rì rào, thắc mắc.

Khi những sợi tóc nàng đã được gió hong khô và thổi bay rối tung lên mặt, lên vai áo tôi, là lúc cơn điên mê vừa lịm tắt. Hơi thở đều hòa và trái tim trở lại những nhịp bình thường, tôi thì thầm trong tóc nàng, “Em.”

Nàng nghiêng đầu, kề tai sát miệng tôi, “Gì, anh?”

“Ơ… thì…” tôi ngập ngừng. “Biển đẹp quá!”

Nàng cũng thì thầm, “Em yêu biển.”

Tôi ngậm những sợi tóc nàng trên môi, “Em là một phần của biển cả.”

Nàng xoay qua, gài lại những nút áo chưa kịp cài khuy của tôi. Gió lộng mở ra giữa đất trời đồi ngực nàng đầy vun.

“Gọi em là Thụy.” Nàng tự giới thiệu.

Tôi đáp lời nàng, “Còn anh là…”

“Anh là Nguyên.” Nàng cướp lời.

“Hở?”

“Anh là Nguyên.” Nàng nhấn mạnh.

Tôi bối rối, “Em…”

“Gọi em là Thụy.” Nàng nhìn tôi thật gần. Tôi chơi vơi trong mắt nàng. Đôi môi hồng hé mở, khoe hờ những chiếc răng trắng bóng, và đầu lưỡi mềm ướt lặng lẽ chực chờ. Như con thú bị thôi miên vô phương trốn chạy, tôi nhìn sâu vào mắt người con gái, và chỉ cố nhìn vào mắt nàng, nhưng vẫn thấy đồi ngực nhấp nhô.

Nàng hôn nhẹ lên môi tôi. “Nguyên; Nguyên của em…”

Cái tên chợt bật sáng trong tăm tối lòng tôi một ngọn đèn. Phải rồi; vài phút trước đây, trên đỉnh cao của cơn điên mê, nàng đã gọi cái tên này; cái tên dễ nhớ mà tôi đã quên khuấy đi sau cơn thất lạc.

Một giọt buồn loang trong tôi như giọt mực nhỏ vào ly nước trong. Tôi bóp khẽ vai nàng, “Em.”

“Gọi em là Thụy.” Nàng ngắt lời tôi.

“Ừ, Thụy; mà… Nguyên là ai vậy?”

“Anh chứ ai.” Nàng chỉ tay vào ngực tôi, chỗ của trái tim, cười rạng rỡ.

Tôi bối rối, “Nhưng mà… Thụy có lầm người không?”

Nàng lắc đầu, tự tin, “Lầm sao được. Anh nói bậy không à!”

“Chắc không?”

“Chắc chứ. Chỉ có Nguyên của em mới lì lợm dễ thương như vậy.”

“Hở?”

“Người ta đuổi hoài cũng không chịu về. Giống hệt như hồi còn ở Sài Gòn. Anh nhớ lần đi lễ chùa Vĩnh Nghiêm đêm giao thừa không? Anh lại muộn cả nửa tiếng. Em chờ, tức muốn chết mà không dám khóc. Tết nhất mà khóc, xui cả năm, thành ra đành phải đứng chờ. Mãi sau anh mới đến. Giận quá, em đuổi anh như đuổi tà mà anh không chịu về. Người đâu mà lì lợm!”

Nàng liếc tôi thật ngọt, thay cho dấu chấm câu. Tôi cố gắng hình dung lại khung cảnh chùa Vĩnh Nghiêm giữa lòng Sài Gòn của mười lăm năm về trước. Đã xa quá rồi và đã lâu quá rồi những ngày Sài Gòn đưa đón thuở còn đi học. Tất cả còn lại trong một ngăn trí nhớ tôi tồi tệ về chùa Vĩnh Nghiêm chỉ là khoảng sân rộng thênh thang với những bậc xi măng cũ mòn của một đêm giao thừa nào đó cuối thập niên 70. Đêm rực rỡ, tràng pháo giao mùa ném lên không gian u tối những lóe sáng vàng, cam, đỏ, tím, muôn màu. Và tôi thuở đó, với N. còn nàng với một Nguyên nào đó lạ mặt. Nguyên; cái tên vô nghĩa. Ngàn đời tôi không ưa cái tên đó. Và bây giờ, tôi là Nguyên, một vai mới trong tấn kịch đời.

Nàng kéo tôi ra khỏi vũng lầy của trí nhớ, “Nguyên à.”

Tôi chần chừ, “Ờ… gì Thụy?”

“Anh còn giận mẹ không?”

“Hả?”

“Anh còn giận mẹ không?”

“Ơ… mẹ nào?”

Nàng nguýt tôi thật dài, “Mẹ em.”

Tôi ngỡ ngàng, “À… thì…”

Nàng xoay người qua, nhìn tôi – như cô bé học trò nhìn thày giáo – chờ lời giải đáp cho một câu đố nan giải.

“Thì sao?”

Tôi nhủ lòng thật vội, nếu như tôi gặp mẹ nàng và nếu như tôi yêu nàng, tôi cũng sẽ thương mẹ nàng và kính trọng bà như mẹ tôi. Xin hứa với lòng; xin hứa.

“Có giận gì đâu!”

Nàng cười tươi, “Thật nghe?”

“Thật.”

“Chắc nghe!”

“Chắc.”

Nàng hôn nhẹ lên môi tôi. Tôi ngậm vội lấy môi nàng, ham hố. Chúng tôi cuốn lấy nhau vất vả, cuống quýt, rồi bất chợt buông nhau. Tôi loay hoay gỡ những sợi tóc nàng rối quyện vương trên mặt, trên môi.

Tiếng Thụy thì thào, “Cũng tội nghiệp mẹ, phải không Nguyên?”

Tôi lừng khừng, “Ừ… thì cũng…”

Nàng nhìn ra phía biển khơi, “Anh có vẻ vẫn còn giận mẹ.”

“Đâu có!”

Nàng khẽ lắc đầu, “Nguyên giấu em. Nguyên vẫn còn giận mẹ như hồi đó. Cũng không hẳn lỗi tại mẹ tất cả đâu. Một phần cũng tại mình. Nhất là tại Nguyên; Nguyên tự ái, Nguyên ngang tàng, bướng bỉnh,” nàng quay sang, ném cho tôi một cái liếc, tình như một câu thơ lục bát, thay cho dấu chấm câu. “Đã nhịn mẹ được năm sáu năm trời mà cuối cùng lại tự ái vặt để cho tan vỡ hết. Thành ra lỗi của anh một phần; nếu không giờ này cu Tý chắc cũng đã biết đi rồi.”

Tôi hụt hẫng, chới với; rơi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác.

“Cu Tý?”

Nàng cười, hai má ửng hồng. Chút bối rối vướng trong giọng nói, “Cu Tý… con của chúng mình đó…”

“Cu Tý làm sao?” Tôi ngắt lời nàng.

Má nàng đỏ đặm hơn, “Hồi đó, nếu em liều nghe theo anh, chiều ý anh, thì bây giờ cu Tý cũng đã biết đi rồi, phải không?”

“Ừ… có lẽ…”

Nàng cúi đầu, thì thầm. Tiếng nàng loãng tan trong gió, tôi nghe tiếng được, tiếng mất, “Tại…em…một phần.”

Tôi bóp nhẹ bàn tay người con gái, “Tại em?”

“Ừ. Hồi đó nếu em chiều Nguyên, mình sống với nhau một đêm chồng vợ, em đã là của Nguyên; mẹ chẳng còn lý do gì ngăn cản. Hồi đó, em lý tưởng quá, em nghĩ đến thứ tình yêu thánh thiện, phải không Nguyên?”

“Ừ… thì…”

Giọng Thụy xa vắng, ngậm ngùi, “Để có được nhau, đôi khi phải dùng những mánh lới, thủ đoạn. Hồi đó em không đồng ý với Nguyên, bây giờ em hoàn toàn đồng ý. Cũng muộn đấy, nhưng muộn còn hơn không.” Nàng bóp nhè nhẹ những ngón tay tôi, dịu dàng, “Em xin lỗi Nguyên nhé. Tha lỗi cho em không?”

Tôi lơ đãng nhìn những cụm mây trắng như bông từ từ trôi trên nền trời xanh thẫm. Thụy thúc khuỷu tay vào cạnh sườn tôi, nhắc nhở, “Tha lỗi cho em không?”

“Tha.”

Nàng cười vui, “Hứa không?”

“Hứa.”

“Hứa gì?”

Tôi hơi bực bội, “Thì hứa tha.”

Nàng gật gù, “Cả mẹ nữa; Nguyên phải hứa không được giận mẹ.”

“Ừ, hứa; không giận mẹ cũng không giận Thụy chút nào hết. Được chưa?”

Người con gái hả hê, thoải mái, thở ra nhẹ nhàng, “Cảm ơn Nguyên.”

Tôi nghiêng đầu, cụng nhẹ vào đầu nàng, “Không có chi.”

Buổi sáng yên tĩnh. Mặt trời lên cao dần, nắng sớm bò trên ghềnh đá, lan dần tới chỗ chúng tôi ngồi. Màu hồng của nắng làm rực rỡ sắc vàng của những bông hoa dại hình dáng lạ lùng mà tôi không biết tên. Bóng hai chúng tôi in đặm nét trên bờ đá xám như vết điêu khắc trong hang động thời tiền sử. Trong một thoáng chúng tôi cùng lặng yên theo đuổi những cảm xúc, những ý nghĩ riêng tư vụn vặt. Sóng vẫn ồ ạt nối tiếp nhau vỗ vào ghềnh đá; bụi nước bay mát lạnh không gian. Xa tít ngoài kia, nơi nước biển màu tím ngắt, biết đâu chẳng có những nàng tiên cá vô tư ca hát, vui đùa hay muộn phiền vì thương nhớ, chờ mong.

“Nguyên ơi!”

Giọng Thụy xa vắng. Tôi lặng im.

“Nguyên à.”

“Gì, Thụy?”

“Em nhớ nhà.”

“Anh cũng vậy.”

Người con gái băn khoăn, “Làm sao về bây giờ?”

“Anh cũng không biết nữa.”

Nàng xoay qua, nhìn vào mắt tôi, “Anh phải biết.”

Tôi gật gù, “Cách nào?”

Nàng mỉm cười, tinh nghịch trỏ ngón tay lên trán tôi, “Suy nghĩ. Thông minh nhất nam tử.”

Tôi ngập ngừng, “Suy nghĩ làm chi cho điên đầu.”

“Nguyên nói cái gì?”

Nàng chợt giật nảy người như vừa chạm vào một vật gì kinh khủng. Tôi bối rối, tránh tia nhìn của nàng, “À… thì anh không… muốn… nhức đầu.”

“Không phải vậy, anh ám chỉ em điên kìa.”

“Bậy nào!”

Tôi nhìn nàng, bắt gặp đôi môi hồng, run run vì giận. Giọng nàng đặc lại, “Thì tại điên em mới nói bậy.”

“Nhảm!”

Đôi mắt rưng rưng, Thụy tiếp, giọng ướt sũng, “Em biết, tại em điên nên mới hay nói nhảm.”

Tôi cầm lấy bàn tay nàng, bóp nhẹ, “Thôi mà, anh có nói gì đâu!”

Nàng vùng vằng, giật tay ra khỏi tay tôi.

“Có!”

“Nói gì?”

Cơn giận sủi bọt trong tôi. Tôi cố gắng kiềm chế cho khỏi trở nên cộc cằn. Nàng vẫn làm mình làm mẩy, “Anh nói em điên.”

Thôi rồi, cơn giận sôi sục đã đẩy bật nắp chiếc-ấm-nước-lòng-tôi.

“Em điên quá,” tôi sựng lại mất vài giây để cố nhớ cái tên của nàng, “Thụy à!”

Trong khoảnh khắc, nàng chết sững. Đôi mắt mở lớn. Cánh mũi phập phồng như người ngạt thở đang cố hít thật nhiều khí trời. Miệng hé mở và đôi môi run run như đang trong cơn động kinh. Má nàng đổi từ màu hồng qua màu trắng xanh của con bệnh thiếu máu kinh niên. Chỉ có những sợi tóc bay phất phơ trong gió, và manh áo mỏng trên ngực nàng là có nhịp sống riêng; nhịp của gió biển nồng hương muối, tất cả còn lại bị cuốn vào cơn giận dữ óng ả.
Những giọt nước mắt ứa ra trên mi, lăn dài xuống má, đọng lại dưới cằm, rồi rơi xuống trên vai, xuống ngực nàng. Đột nhiên, nàng nấc lên một tiếng và bật khóc. Thế là xong. Tôi ngồi yên chịu đựng.

Nắng đã lên cao. Bóng hai đứa tôi bò ngoằn nghoèo trên tảng đá xám, lan một phần xuống cỏ xanh và hoa vàng, trông kỳ dị như con quái vật hai đầu, ngả nghiêng, vật vã. Tôi lặng yên nghe nàng khóc, người nàng rung theo mỗi tiếng nấc. Âm thanh bị nén xuống trong lồng ngực, nên tiếng khóc nghe tức tưởi, xa xăm như một uất ức không cùng.

Tôi ngồi, lặng nghe nàng khóc như vậy không biết bao lâu. Cho đến khi cơn giận dỗi tan loãng trong gió biển, những giọt lệ cạn khô trong mắt, để lại vệt khô óng ánh trên đôi má hồng lợt lạt. Những tiếng nấc tức tưởi đã thưa dần rồi tắt hẳn, chúng tôi vẫn chưa nói với nhau một câu nào. Cả hai cùng nhìn ra biển khơi.

Khi mặt trời đã lên cao, hắt xuống vai chúng tôi những tia rát bỏng, nàng nói, “Thôi, em về.”

Tôi băn khoăn, nghĩ cách gặp lại nàng. Nếu như nàng không trở lại đây, tôi sẽ khó lòng tìm gặp lại nàng, giữa hải đảo với hàng chục ngàn người chen chúc giữa những cây dừa cao lêu nghêu và loài chuột mập mạp chạy khắp nơi như những con chó nhỏ, tròn trĩnh.

Có tiếng người lao xao phía bên kia dốc đá, loãng trong gió biển. Nàng đặt tay lên đầu gối tôi, lay nhẹ, “Nguyên.”

Tôi như người nửa mê, nửa tỉnh, “Anh đây.”

“Em phải về.”

“Sao vậy?”

Nàng ngập ngừng, “Sắp tới giờ thăm bệnh của bác sĩ.”

“Tại sao?” Tôi thắc mắc.

Giọng nàng buồn thiu, “Nguyên cũng biết là em bệnh mà.”

Tôi đặt tay lên tay nàng, “Em ở khu nào?”

“Em không có chỗ ở nhất định,” nàng cúi đầu như áy náy, lo âu. “Người ta cho em một phòng trong bệnh viện Sickbay.”

Tôi quay sang nhìn nàng, ngạc nhiên, “Thật không? Anh có thấy em ốm đau gì đâu!”

Nàng mím môi, “Em điên.”

Tôi chợt nhớ cơn khóc lóc của nàng cách đây chưa đầy năm phút.

“Thôi mà, em phải nghe anh. Em không có bệnh gì hết; em khỏe mạnh.”

Nàng nhoẻn miệng cười, bóp nhẹ những ngón tay tôi, “Em thích Nguyên. Phải như Nguyên là bác sĩ thì em đâu có bệnh.”

Tôi gật gù, “Nếu em muốn, anh sẽ làm bác sĩ cho em.”

“Chắc nhé!”

“Ừ.”

Nàng ngả người, gục đầu vào vai tôi như nương nhờ sự chở che, cứu vớt, “Em ghét mấy người trong bệnh viện Sickbay. Họ cứ đòi mang em đi chạy điện.”

Tôi vòng tay qua vai nàng, vỗ về, “Em có bị gì đâu mà chạy điện.”

Nàng thì thầm, “Họ nói em điên.”

“Họ nói giỡn chơi.”

“Không có, họ rất nghiêm trang. Họ thành thật.”

“Đừng tin họ.”

“Em không tin họ. Nhưng họ vẫn bắt em uống thuốc. Em sợ những viên thuốc; em ghét những viên thuốc. Những viên thuốc màu trắng đắng ngắt và những viên thuốc màu hồng không chua, không ngọt, không đắng, người ta bắt em uống mỗi ngày. Những viên thuốc làm tim em đập mạnh, làm tay em run, làm miệng em khô đắng, làm đầu óc em mịt mờ u ám. À, Nguyên ơi tại sao người ta lại làm ra những viên thuốc không chua không ngọt không đắng nhỉ? Em thù những viên thuốc như thế…”

Nàng sôi nổi với những ý tưởng không đầu đuôi. Ánh mắt nàng rạng rỡ, nhìn thăm thẳm vào khung xanh của trời, của biển cả mênh mông. “Tại sao lại có những viên thuốc không đắng, không chua, không ngọt; những viên thuốc ngu ngốc như sỏi đá vô tri. Em thù, em ghét hết mọi người ở bệnh viện Sickbay. Nguyên biết không? Em chỉ mong có dịp nào em sẽ bắt nhốt họ vào những phòng khám bệnh, buộc tay chân họ vào giường; bắt họ nuốt từng viên thuốc, từng viên thuốc…”

Tôi ngơ ngác nhìn nàng đang say sưa trong giấc mộng trả thù. Nhìn nghiêng, nàng giống pho tượng một nữ thần đang thôi miên kẻ tử thù trong thần thoại.

“Nếu có Nguyên làm bác sĩ, em sẽ làm y tá. Em sẽ chích cho họ một trăm mũi thuốc mỗi ngày. Nguyên biết không. Những buổi sáng, họ hay bắt em phải chích thuốc. Em trốn, nhưng họ hứa tìm Nguyên cho em nên em mới chịu uống và chích thuốc. Họ hứa hoài mà chẳng bao giờ tìm cho em. Thành ra sáng nào em cũng ra tìm Nguyên ngoài biển. Đâu biết là Nguyên ở rất gần bên em từ bao lâu nay.”

Nàng dụi đầu vào vai, vào cổ, vào mặt tôi, nũng nịu, “Đừng bỏ em nghe Nguyên.”

Tôi vỗ nhẹ vai nàng, “Không bỏ đâu!”

“Nguyên thương em hoài nghe?”

Tôi choáng ngợp trong mùi hương của tóc, “Thương hoài.”

Tiếng lao xao bất chợt vọng lên nghe thật gần. Chúng tôi giật mình quay lại. Một đám thanh niên, thiếu nữ bước trên những mỏm đá, tiến về phía chúng tôi. Tiếng reo mừng tở mở xen lẫn tiếng la hét. Một thiếu nữ mặc chiếc váy màu xanh da trời vừa nhón chân nhảy trên mỏm đá, vừa chỉ tay về phía chúng tôi. Chiếc váy rộng của cô phần phật bay trong gió.

Tôi nghe được giọng miền Nam của người con gái, “Con nhỏ điên đó đó; đúng nó rồi!”

“Đừng để nó chạy mất, về cao ủy sạc thấy mẹ!” Giọng khàn đục của một gã đàn ông.

Thụy hoảng hốt đứng bật dậy, xớn xác tìm đường chạy trốn. Trong chớp mắt, đám người đi lùng bắt đã trải rộng, che kín lối thoát thân của nàng. Họ xăm xăm tiến về phía chúng tôi. Tôi bối rối nhận ra người y tá quen mặt trên bệnh viện Sickbay trong đám thanh niên. Tất cả cùng nhìn tôi bằng ánh mắt kỳ lạ. Thụy đứng nép sau lưng tôi, hai tay vòng qua ôm bụng tôi, siết chặt, như nương nhờ sự che chở. Tôi duỗi thẳng hai tay, chờ đám người tiến lại gần.
Người y tá nói bằng giọng khàn khàn, “Cô ấy phải về bệnh viện. Cao ủy y-tế cần gặp ngay.”

Tôi phân trần, “Cô ấy có ốm đau gì đâu!”

Vòng tay Thụy, như con trăn của rừng thiêng, siết mạnh hơn quanh bụng tôi.

Người y tá lạnh lùng, “Anh làm sao biết được!”

Những sợi tóc của Thụy bay trong gió, lất phất trên mặt, trên cổ tôi nhột nhạt. Mùi hương của tóc và vị mặn của muối nồng nàn khứu giác. Đôi tay run rẩy siết quanh tôi và đồi ngực nàng nóng ran áp sau lưng tôi xôn xao những nhịp lo âu, sợ hãi của trái tim lưu lạc. Hơi thở nàng phì phà trên cổ tôi nhột nhạt.

“Đã đến giờ khám bệnh và chích thuốc. Nếu để quá giờ, cô ấy sẽ lên cơn.”

Khuôn mặt gã y tá trung niên lạnh như băng sau câu nói. Tôi đặt tay lên đôi bàn tay mềm đang siết chặt lấy nhau vòng trước bụng tôi, xoay đầu nói với nàng, “Bây giờ em về bệnh viện một chút thôi, được không Thụy?”

Đám người tạo thành vòng tròn nhỏ vây quanh chúng tôi, chờ đợi. Thụy cứng cỏi, “Không!”

Tôi năn nỉ, “Anh sẽ cùng đi với Thụy.”

“Không!”

Tôi dỗ dành, “Nghe anh đi. Về bệnh viện một chút xíu cho bác sĩ thấy mặt thôi.”

“Không!”

“Về chích thuốc rồi ra đây anh kể chuyện cho nghe.”

“Không!”

“Không nghe, ngày mai người ta nhốt em trong bệnh viện Sickbay, em sẽ không gặp anh được đâu!”

Vòng tay siết quanh tôi chợt nới lỏng. Tôi quay lại, đặt tay lên vai Thụy. Nàng gạt tay tôi xuống, tức tưởi, “Nguyên nói dối em.”

Đám người thì thào to nhỏ. Người y tá tròn mắt ngạc nhiên, “Anh là Nguyên hả?”

“À…” Tôi ngập ngừng, rồi vội vã gật đầu.

Hai giọt nước mắt ứa ra trên mi người con gái, “Em ghét Nguyên!”

Bất chợt Thụy xoay người bỏ chạy. Đám người lạ và tôi sững sờ một giây rồi hấp tấp chạy theo. Những tảng đá nhấp nhô giữa những bụi cây rậm rạp làm cuộc đuổi bắt trở nên vất vả, khó khăn. Tiếng la hét hỗn loạn lẫn trong tiếng sóng dạt dào. Thụy nhảy nhót như con mèo nhỏ trên những phiến đá gập ghềnh. Tôi gào thét gọi tên nàng. Tiếng gào của tôi lẫn vào tiếng hò hét của đám đông. Tôi trượt chân trên phiến rêu xanh của tảng đá nhỏ, ngã một cái đau điếng. Vừa lồm cồm ngồi dậy được, tôi lặng người thấy nàng đứng sừng sững trên mỏm đá cao sát bờ vực. Tôi cuống cuồng, “Thụy ơi, đừng!”

Nàng ném cho tôi cái nhìn thù oán, “Đồ phản bội!”

Tiếng hét của nàng vang trong tiếng sóng, lẫn với tiếng xôn xao hốt hoảng của đám đông. Tôi mê muội nhìn nàng buông mình xuống vực sâu, mất hút sau vách đá dựng trên bờ vực. Những tiếng “Ê! Đừng! Ấy! Kìa kìa! Đừng đừng! Trời ơi!” lẫn vào nhau thừa thãi, vô nghĩa.

Không một tiếng động nào vọng lên được từ cõi thẳm sâu mịt mùng của biển. Đám người đứng lặng như những hình người hóa đá trong cổ tích, trên mỗi khuôn mặt còn đặm nét kinh hoàng.

Ngoài kia, biển vẫn thản nhiên như con bệnh tâm thần không còn ý niệm nào về thời gian và sự đau khổ của kiếp người. Cơn bệnh dửng dưng với mọi đổi thay của cuộc đời.

Pulau Bidong, tháng 06, 1982 
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.