Hôm nay,  

Nguyễn Trọng Khôi: Đam Mê Và Sáng Tạo

07/07/202410:24:00(Xem: 3783)

 

Nguyễn Trọng Khôi: ĐAM MÊ VÀ SÁNG TẠO
 

Trương Vũ

 
Khi lần đầu tiên gặp một họa sĩ, tôi thường có khuynh hướng tìm vài nét tương đồng để liên tưởng đến một họa sĩ nổi tiếng nào đó thuộc những thế hệ trước. Với Nguyễn Trọng Khôi, tôi cũng làm như vậy nhưng trừ vài nét chung chung như được đào tạo ở trường ốc hay năng khiếu, tôi không tìm được gì đậc biệt. Nguyễn Trọng Khôi (NTK) không giống một họa sĩ nào khác.
 

Từ ngày quen biết NTK, khoảng giữa thập niên 80, đến nay, tôi luôn có cảm giác là với anh, không có một ngày nào không có hội họa. Rất đam mê, nhưng trong cái dam mê đó cái ý thức tự do rất lớn. Anh không tự ràng buộc vào một cách nhìn, một cách thấy, một quan điểm nghệ thuật nào nhất định. Anh vẽ tranh ấn tượng, trừu tượng, biểu hiện, chân dung, hình họa, v.v. Và, sử dụng tài tình nhiều chất liệu khác nhau như chì than, màu nước, sơn dầu, acrylic, hổn hợp.
 

Thời gian đầu, NTK vẽ nhiều tranh nặng nét hiện thực với khuynh hướng ấn tượng, Loạt tranh này được giới thưởng thức, sưu tầm ở hải ngoại ưa chuộng. Tuy nhiên, càng về sau, tranh của NTK khác đi nhiều, rất mới trong phong cách và quan niệm nghệ thuật. Mặc dầu vậy, cái đặc biệt nơi NTK là dù sau một thời gian lao vào trừu tượng với họa pháp tự do anh vẫn có thể trở lại vẽ tranh cổ điển với khả năng tự chế cao độ.
 

NTK nổi tiếng với tranh tĩnh vật. Tranh tĩnh vật dễ vẽ nhưng rất khó thành công, nghĩa là rất khó tạo nên một tác phẩm nghệ thuật cao. Đối tượng vẽ là những vật vô tri vô giác. Chúng đứng im, không động đậy, nhưng người vẽ phải tạo nên sự chuyển động, tạo nên sức sống, cái đẹp, và cả cái thông diệp nghệ thuật. Tranh vẽ những bình đất của NTK là một “signature” của anh. Khó có họa sĩ Việt Nam nào vượt qua. Vẽ bằng sơn dầu. Bố cục, ánh sáng, màu sắc phội trí rất điêu luyện. Tranh thường dùng nhiều màu đất (earth tones) nhưng thỉnh thoảng, trong một số bức, chêm vào những vàng, đỏ, xanh làm nổi bật lên rất tài tình dù nền màu nóng hay lạnh.
blank

              Still Life – Oil on Canvas


blank       Tĩnh vật Tây Bắc – Oil on Canvas

NTK vẽ chân dung bằng nhiều chất liệu khác nhau nhưng đa số bằng chì than và sơn dầu. Có vẻ như anh chịu nhiều ảnh hưỡng của Rembrandt trong bút pháp lẫn màu sắc. Dù có chịu ảnh hưởng hay không, NTK đạt một độ cao trong nghệ thuật vẽ chân dung. Rất có hồn, rất giống, biểu hiện cá tính của người mẫu. Và, tranh đẹp. Theo tôi, cái quan trọng nhất khi vẽ chân dung là sư chân thật. Không ít họa sĩ khi vẽ chân dung cố tạo nên một con người đẹp hơn, đài các hơn, phong sương hơn, hay với đàn ông thì có cá tính mạnh hơn. Người trong tranh trông rất hợp với một hình ảnh nào đó trong thi ca. Có thể gọi đây là tranh sáng tác nhưng không phải là tranh chân dung. Tranh chân dung phải giống người mẫu, cả vóc dáng, tâm hồn, lẫn cá tính. Giống theo bất cứ quan điểm nghệt thuật và cách nhìn nào của người vẽ, nhưng phải giống người mẫu. Không thể gán bức chân dung của người này cho người khác. Và tranh chân dung cũng không phải là caricature, phác họa chỉ dựa trên vài nét đặc biệt, Tôi cho rằng NTK là một họa sĩ vẽ chân dung đích thực và có tài. Thỉnh thoảng, anh phóng túng hơn trong cả màu sắc lẫn bút pháp, như trong chân dung Văn Cao, nhưng vẫn theo đúng những nguyên tắc căn bản cho tranh chân dung.

blank

            Mrs. Mai Trần – Oil on Panel

blank            Nhạc sĩ Văn Cao ( dang dở). Oil on Canvas

 

Hình Họa của NTK có bố cục vững và hình ảnh nhân vật trong tranh nặng tính chân dung, khác với tranh hình họa của nhiều người trong nhóm họa sĩ trẻ Miền Nam trước 1975. Và cũng không có dáng dấp những phong cách thời thượng của hình họa trong tranh Picasso, Gauguin, hay Modigliani, cái cổ được kéo dài ra. Mỗi khuôn mặt trong tranh NTK chỉ hiện diện trong một bức tranh, khó thấy được sao chép lại cho một bức tranh khác. Và, càng không có chuyện người mẫu sống mãi mà không già từ thập niên này qua thập niên khác

 

blank

     Người phụ nữ bị ruồng bỏ - Oil on Canvas

 

Tôi thích nhất tranh Trừu Tượng và Biểu Hiện của NTK. Trong lãnh vực này, khả năng sáng tạo và làm mới của anh biểu lộ rõ. Chất liệu acrylic thường được sử dụng trong loại tranh này. Tuy có vẻ như NTK vẫn có khuynh hướng dùng nhiều màu đất, nhưng ở đây, anh dùng màu sắc phóng túng hơn. Tôi thích nhất bức The Last Autumn, màu sắc rực rỡ nhưng vẫn rất hài hòa và ấm áp, tương phản trong một không gian màu lạnh.

 

blank

       The last Autumn – Acrylic on Canvas

 

Tranh Biểu Hiện của NTK trang trải thông điệp của họa sĩ một cách nghệ thuật, tài tình, tự nhiên, không  gượng ép. Thông điệp thường nhắm vào sự hiu quạnh và nổi xót xa, cô đơn của con người. Kể cả, khi diễn đạt tình yêu và hạnh phúc. Nhưng quan trọng nhất, đây là những bức tranh đẹp, bất kể mang thông điệp nào. Tôi thích nhất bức Bà Mẹ Trẻ. Bức này được anh xếp vào cả hai loại tranh, Trừu Tượng và Biểu Hiện.


blank

              Bà mẹ trẻ - Acrylic on Canvas

 

Những Mãnh Vụn Trong Trật Tự Mới gồm một loạt những sáng tác thuộc nhóm Biểu Hiện, được cấu trúc dựa trên ý nghĩa của tên gọi. Những bức tranh này biểu hiện một cách nhìn mới về đời sống, về con người, liên kết những mãnh nhỏ khác nhau, tương đồng hay tương phản, để vẽ nên một bức tranh toàn diện.  Cái câu nói “trong họa có thơ” có thể áp dụng trong tranh Biểu Hiện của NTK.

 

blank

               Nhan sắc – Oil on Canvas

 

Bên cạnh hội họa, NTK là một nghệ sĩ có nhiều tài năng và đam mê khác. Hát hay, đờn hay, cả sáng tác nhạc. Anh giao tiếp rộng và là bạn tốt của rất nhiều văn nghệ sĩ, trí thức. Tôi tham dự khá nhiều gặp gỡ bạn bè chung với NTK. Lần gặp gỡ nào cũng để lại trong tôi ấn tượng tốt, khó quên. Tôi có cảm giác như cái đời sống ngoài hội họa nhưng khá năng động này của NTK đã ảnh hưỡng nhiều đến những sáng tác hội họa của anh. Những sáng tác đã tạo nên nhiều xúc cảm sâu đậm và gần với đời sống thực của con người.
 

Nguyễn Trọng Khôi tốt nghiệp Cao Đẳng Mỹ Thuật Sài Gòn năm 1973. Trường ốc giúp anh vững vàng trong kỷ thuật và không phạm những lỗi lầm căn bản. Nhìn tranh NTK ta thấy điều đó. Nhưng chỉ có thế. Rời trường ốc, anh luôn tạo cho mình một lối đi riêng. Anh có một khả năng sáng tạo phong phú, luôn tìm tòi và luôn làm nên cái mới. Trong nghệ thuật, tham vọng là một đức tính. Tôi cho rằng NTK là một họa sĩ nhiều tham vọng.
 

Với tài năng, sự đam mê và tham vọng nghệ thuật, sự cống hiến cái mới của Nguyễn Trọng Khôi cho hội họa sẽ khó ngừng lại ở một thời điểm nào.

Với Nguyễn Trọng Khôi, chúng ta luôn chờ đợi và đón nhận.

  

Trương Vũ

(Trương Hồng Sơn, D.Sc.)

24 tháng 6, 2024

 



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.
Mỗi lần đến thăm, Cụ đều vui vẻ, minh mẫn, kể chuyện xưa, nụ cười hiền hậu và giọng nói ấm áp. Cụ thường bảo: “Nhà giáo là nghề, nhà văn là nghiệp.” Cái nghiệp dĩ văn chương ấy, với Cụ, là hành trình tu tập – văn là thiền, chữ là tâm. Văn chương Cụ Doãn là cõi thần thoại của chính cuộc đời này: nơi cô bé bán diêm, chú lính chì, hay người tù trong lao lý đều tỏa sáng bằng ánh sáng của lòng người tỉnh thức. Trong Khu Rừng Lau, Cụ từng viết: “Cách giữ nước hiệu nghiệm là phải phát triển ngay khu rừng văn hóa…”. Một lời nhắn gửi vượt thời gian – giữa đạo pháp và dân tộc.
Nhà văn Doãn Quốc Sỹ sinh ngày 17/2/1923 tại Hà Đông, ngoại ô Hà Nội. Thời trẻ, ông theo Việt Minh chống Pháp, nhưng sau khi nhận ra bộ mặt thật của cộng sản, ông đã bỏ về thành. Ông từng học luật và muốn thi làm thẩm phán. Năm 1946, ông kết hôn với cô Hồ Thị Thảo, con gái của nhà thơ trào phúng Tú Mỡ - Hồ Trọng Hiếu. Đưa gia đình di cư vào nam sau Hiệp định Geneve năm 1954, ông tiếp tục nghề dạy học và sinh hoạt văn học nghệ thuật suốt thời Việt Nam Cộng hòa cho đến tháng 4/1975. Ông đã dạy nhiều trường trung học, từ trường Nguyễn Khuyến ở Nam Định, đến Chu Văn An, Hồ Ngọc Cẩn ở Sài Gòn. Ông cũng là giáo sư của Trường Quốc gia Sư phạm, Đại học Văn Khoa và Đại học Vạn Hạnh.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.