Hôm nay,  

Suối Quên

30/08/202400:00:00(Xem: 2256)

 
“Cái này giá bao nhiêu?” Tôi chỉ vào xâu chuỗi với những viên đá nhỏ, màu nâu óng ánh sắc cầu vồng.

Người đàn bà ngưng xếp mấy thứ lặt vặt trên sạp, ngước lên nói giá, rồi thêm, “Hàng hiếm đó.”

Tôi nhìn quanh. Phía sau tấm bảng Garage Sale, trên một cái sạp đặt giữa chỗ đậu xe trước nhà, chủ nhà bày áo quần đủ màu sắc, chén đĩa đủ cỡ, băng nhạc, máy hát, mấy chồng tạp chí, bút viết, bông tai, dây chuyền, vòng tay, kiềng đeo cổ… nhìn hoa cả mắt.

Tôi chạm nhẹ ngón tay vào những viên đá trên xâu chuỗi. Cái lạnh thấm qua da. Trời nóng nhưng những viên đá trong xâu chuỗi vẫn lạnh. Thấy tôi có vẻ chú ý đến xâu chuỗi, người đàn bà đon đả, “Xâu chuỗi ấy có từ đời nhà Minh bên Trung Quốc.”

“Thật vậy sao?” tôi ngắt lời người đàn bà.

Người đàn bà gật đầu tới tấp, “Vâng. Xâu chuỗi của một nàng công chúa. Khi triều đại sụp đổ, nhà vua và hoàng hậu đem công chúa trốn khỏi kinh thành. Họ giả dạng làm thường dân để khỏi bị truy lùng. Khi không còn vàng bạc, châu báu, hoàng hậu lấy xâu chuỗi này của công chúa, đem bán…”

“Đem bán hay đem ra tiệm cầm đồ?” tôi nói đùa, bởi tôi biết dân xứ này có óc khôi hài, họ sẽ không nổi nóng vì bị châm chọc.

Nhưng người đàn bà vẫn nghiêm trang, “Không có đâu. Đời nhà Minh thiệt đó.”

Tôi mỉm cười. Người đàn bà này thật giàu tưởng tượng. Tôi thầm nghĩ. Bà ta nói bằng tiếng Anh. Và có lẽ “Minh” dễ phát âm và dễ nhớ nên bà ta gán luôn xâu chuỗi cho triều đại ấy. Kẻ cả tin nào đó trong đầu bảo tôi rằng biết đâu bà ta nói đúng. Tuy nhiên với một báu vật ghi dấu cả một triều đại thì giá tiền bà ấy đưa ra nghe không phù hợp chút nào.

“Ông mua đi, về tặng bà hoàng hậu của ông,” người đàn bà khuyến khích. “Báu vật. Mùa nào những viên đá quý này cũng mát lạnh. Ông cầm thử lên mà xem. Mua cho bà nhà. Xâu chuỗi ngọc này đem lại sự may mắn…”

Tôi cầm xâu chuỗi lên, cẩn thận đặt nó trong lòng bàn tay. Cái lạnh từ những viên đá nhỏ thấm đều qua da. Những viên đá màu nâu ngả sang màu ngà phản chiếu ánh sáng mặt trời thành những sắc màu rực rỡ của cầu vồng.

“Mua xâu chuỗi ngọc ấy về tặng người yêu, cô ấy sẽ yêu ông suốt đời,” người đàn bà tiếp bằng giọng hào hứng.

Xâu chuỗi ngọc. Những viên đá quý. Tôi lại mỉm cười. Quý hay không quý tôi cũng không biết. Tôi không biết gì về vàng bạc, nữ trang. Tôi chỉ biết là tôi thích những tia màu phản chiếu lấp lánh phát ra từ những hạt đá nhỏ trong xâu chuỗi. Những tia màu như những câu chào hỏi rộn ràng. Cũng có thể xâu chuỗi làm bằng những hạt đá giả bằng nhựa. Bởi chúng rất nhẹ. Người đàn bà làm tôi xiêu lòng. Tôi sẽ mua tặng người yêu như lời bà ta nhắc nhở, dù tôi không chắc là đến ngày tháng này tôi đã có người yêu hay chưa. Tiểu Quyên là người nữ duy nhất trong thế giới tôi. Nhưng Tiểu Quyên với tôi là hai người bạn, hay đúng hơn là hai chú cháu. Chúng tôi quen và thân nhau đã mấy năm trời rồi, thân hơn cả ruột thịt, gần gũi hơn cả nhân tình. Nhưng chúng tôi vẫn chỉ là bạn. Trong trắng, thánh thiện. Tôi tin lời người đàn bà bán hàng rằng đây là xâu chuỗi ngọc. Giả hay thật tôi không cần biết. Với tôi đó là những viên ngọc quý. Và tôi vét túi trong túi ngoài cho đủ tiền trả cho bà chủ garage sale. Tôi thầm thuyết phục tôi hãy tin lời người đàn bà này rằng tặng cho người yêu, “cô ấy sẽ yêu ông suốt đời.”

Tôi đem xâu chuỗi về, lau chùi cho thật bóng. Và tôi ngồi tỉ mỉ như cô gái nào đó trong cổ tích ngồi đếm những hạt đậu. Tôi đếm được đúng một trăm viên ngọc trên xâu chuỗi.

Một buổi chiều cuối tuần, Tiểu Quyên và tôi lặn lội cả tiếng đồng hồ trong khu rừng, chúng tôi vào sâu, thật sâu trong rừng lá, đi hoài không biết mệt, bởi câu chuyện Tiểu Quyên kể cho tôi nghe từ cuốn phim Tiểu Quyên vừa xem có quá nhiều chi tiết. Kể hoài không hết. Ấy là một trong những thói quen của hai chúng tôi vào những ngày cuối tuần.  

Lúc dừng lại bên gốc cây phong mà một lần Tiểu Quyên đã khắc mẫu tự đầu tên hai chúng tôi lên thân cây, tôi níu nhẹ tay áo Tiểu Quyên, “Ngừng lại đây. Có cái này cho Quyên.”

Tiểu Quyên đứng sựng lại, tròn con mắt, ngạc nhiên, “Gì vậy chú?”

Tôi moi túi áo, lấy ra xâu chuỗi. Những viên ngọc quý lấp lánh muôn mảnh sắc cầu vồng phản chiếu dưới nắng. Tôi thận trọng cầm xâu chuỗi bằng cả hai tay. Tiểu Quyên đăm đắm nhìn tôi. Câu nói nửa chừng trong ánh mắt. Nụ cười tròn đầy trên cánh môi. Tôi trang trọng đeo xâu chuỗi vào cổ cho Tiểu Quyên. “Thuở xưa có một nàng công chúa…” Tôi thì thầm. “Khi vương triều sụp đổ, hoàng gia tan tác, công chúa chỉ còn lại xâu chuỗi này…” Tiểu Quyên nghiêng đầu, chớp mắt, lắng nghe cái truyền thuyết bịa đặt tôi vớt lại từ câu chuyện của người đàn bà bán garage sale.

“Đẹp quá,” Tiểu Quyên suýt soa, những ngón tay mân mê từng viên ngọc trên xâu chuỗi vòng quanh chiếc cổ mảnh mai. “Cảm ơn chú,” Tiểu Quyên choàng hai cánh tay lên vai tôi cho một vòng ôm rất hờ, rất ngại, rồi vòng ôm ấy nới lỏng và buông lơi rất nhanh, “Chú làm Quyên nhớ câu nói của ai đó về ‘xâu chuỗi ngọc của hoàng hậu’. Câu ấy Quyên mới đọc được ở cuốn truyện nào đó bây giờ đã quên mất tiêu.” Tiểu Quyên chấm câu bằng giọng cười trong trẻo.

“Ấy là người ta ví một chuỗi những hải đảo xinh đẹp của một quốc gia nào đó, chú cũng có đọc nhưng quên mất rồi.”

Chơi thân với Tiểu Quyên biết bao lâu mà bây giờ tôi mới nhận ra một điều. Đó là ngoài những cuốn sách, tôi chưa bao giờ tặng Tiểu Quyên bất kỳ món quà quý giá nào. Xâu chuỗi này là món quà (cứ tin là có giá trị) đầu tiên cho Tiểu Quyên. Đúng hơn đó là món quà quý giá đầu tiên trong đời, tôi tặng một người khác phái.

Xâu chuỗi ngọc của hoàng hậu. Những viên ngọc lấp lánh quanh chiếc cổ thuôn dài làm Tiểu Quyên rực rỡ hẳn lên. Món quà rẻ tiền mua ở garage sale trở thành xâu chuỗi ngọc quý giá, Tiểu Quyên trong trí tưởng tượng của tôi là hoàng hậu của một thời xưa cũ và xâu chuỗi trở thành vương miện của một vương triều mà những cung vàng điện ngọc đã trở thành hoang phế. .

Đang là mùa hạ. Chiều rồi mà không gian vẫn hừng hực nóng. Rừng hoang lặng gió. Chúng tôi lại vạch lá, rẽ cành, len lỏi giữa những dây leo chằng chịt. Tiếng chim uể oải hót trên những ngọn cây cao. Con sóc nhỏ chuyền trên cành, như muốn dẫn lối cho chúng tôi vào sâu mãi trong rừng. Có tiếng xào xạc cây lá chạm nhau, chúng tôi rõi mắt nhìn. Thấp thoáng sau khóm lá um tùm, bóng chú nai vàng quen mặt mập mờ ẩn hiện. Hai chúng tôi luồn lách giữa đám dây leo chằng chịt. Đến một đoạn chợt thấy cây cối thưa hẳn đi, đất dưới chân có vẻ mềm và ẩm. Và bỗng dưng chúng tôi thấy mình đứng bên bờ một con suối nhỏ. Mặt nước lung linh một khoảng xanh của trời và rậm rạp cây lá đan nhau. Tiểu Quyên reo lên mừng rỡ, “Suối nước, chú ơi, suối nước kìa!” Và nhanh chân chạy đến sát bờ nước, tháo vội đôi quai dép, xoay người dọ dẫm nhúng một chân xuống nước.

“Nước mát quá chú ơi.”

Dòng nước như mọc ra từ rừng cây rậm lá. Khúc này của lòng con suối mở rộng. Đó đây rải rác những tảng đá xám trong lòng suối. Con nước lặng lờ vuốt ve cây lá ven bờ.

Tôi nhanh chân bước trên đám cỏ gai, theo Tiểu Quyên, khom người quậy bàn tay vào làn nước trong. Dòng nước mát rượi mơn man da thịt.

“Nước trong quá!” Tiểu Quyên suýt soa. Tiếng nước quẫy động đầu những ngón tay thuôn. Tôi nhìn những hòn sỏi rải rác trong lòng suối. Những con cá bé li ti lượn tung tăng. “Chú ơi, Quyên muốn tắm,” Tiểu Quyên nói rồi ngước nhìn tôi, chờ đợi. Cô bạn nhỏ của tôi vẫn có những phút bốc đồng như thế.

Tôi giật mình, bối rối, “Bây giờ?”

“Dạ, chú,” Tiểu Quyên nhanh nhẹn gật đầu.

“Ướt hết quần áo thì sao?”

Tiểu Quyên bật lên giọng cười trong trẻo, “Có ai mặc đồ mà tắm đâu. Chú ngây thơ quá hà.”

Tôi lúng túng nhìn quanh. Cây lá dày đặc chung quanh. Không gian xanh thẫm một màu. Những khóm hoa vàng bốn cánh thơm hương quế mọc đầy hai bên bờ nước. Loài hoa dường như chỉ mọc ở khu rừng này, lưa thưa ngoài bìa rừng nhưng chen chúc nhau bên bờ suối.

“Bây giờ chú nhắm mắt lại,” Tiểu Quyên nói.

Tôi ngập ngừng một giây rồi ngoan ngoãn nhắm chặt hai mắt.

Tiểu Quyên giao hẹn tiếp, “Chừng nào Quyên nói mở mắt thì mới được mở mắt.”

Tôi nhắm chặt hai mắt. Trời đứng gió. Không gian tĩnh lặng. Không một tiếng động gì ngoài tiếng róc rách mơ hồ của dòng nước. Rồi có tiếng vải loạt soạt cọ vào nhau. Tiếng gỡ móc khóa thắt lưng. Cái gì đó xáo xác trong lòng, hối thúc tôi mở bừng hai con mắt, nhưng tôi không dám, và chẳng muốn đánh liều ăn gian mở mắt. Tôi không dám thất hứa. Tôi không muốn mất Tiểu Quyên. Nên tôi giữ tất cả những gì mình đã hứa. Cả những điều vặt vãnh.

“Khi nào Quyên nói mở mắt thì chú mới được mở nhé,” Tiểu Quyên dặn. Tôi gật đầu. Rồi nhận ra có thể Tiểu Quyên không nhìn thấy tôi gật đầu, nên tôi ậm ừ, “Đồng ý.”

Tiếng nước quẫy động. Trong khung màu tối ám của hai con mắt nhắm, tôi thấy mờ ảo một thân hình trắng như cánh huệ. Dung nhan ấy dò từng bước và đằm mình xuống dòng suối nhỏ. Hai con mắt không thấy gì, nhưng tâm trí tôi nhìn thấy tất cả. Cả những thứ chập chờn. Cả những đường nét mơ hồ, hư ảo. Thời gian dừng lại. Tôi mù lòa không biết bao lâu. Và những chiếc răng nhọn của cái oi nồng ngày mùa hạ cắn ngập vào thịt da tôi. Cực kỳ ngứa ngáy khó chịu. Tôi thèm đắm mình vào dòng nước mát. Tôi lên cơn khát. Tôi thèm vục mặt vào lòng con suối để uống cho đầy, để nước dập tắt cơn hỏa hoạn trong tôi. Tôi chết cứng toàn thân như gã thiền sư trong buổi tịnh tâm khốn khó. Tôi không thể cho phép tôi làm bất cứ cử động nào. Tôi chỉ cho phép tôi làm tượng đá. Bởi Tiểu Quyên còn bé lắm. Bởi cô bạn nhỏ của tôi mới tròn mười sáu tuổi hôm nào.

“Mở mắt được rồi chú.” Dường như Tiểu Quyên vừa nói.

Tôi lãng đãng trôi dạt chốn nào. Tôi luồn lách theo con suối, nhập vào nhánh sông, trôi ra biển lớn.

“Mở mắt ra được rồi,” cô gái nhắc. Tôi rụt rè mở dần hai mắt. Tiểu Quyên đằm mình trong lòng suối. Nước xoáy ngang đôi vai tròn. Hoa nắng lung linh trên da ngà như khung màu lập thể đầy linh động. Áo quần Tiểu Quyên vắt trên một cành cây dăng ngang gần bờ nước.

“Có mấy con cá nhỏ chú ơi.”

Ánh nắng len lỏi qua những tàng cây, vạch lốm lốm những vạch màu trên tóc ướt, trên vai trần, với nước lấp lánh đùa ngang vai nhỏ. Nàng tiên cá và suối nước trong. Nàng tiên cá thèm bơi ra biển. Nàng tiên cá thèm vị mặn của muối ngoài biển khơi. Khúc suối hẹp, nàng tiên cá của tôi chỉ có thể vùng vẫy tại chỗ và ngâm mình dưới nước, vớt những cọng rong xanh trôi lập lờ và đùa giỡn với những con cá nhỏ. Nàng tiên cá nước ngọt. Nàng tiên cá mắc cạn.

“Con suối này chảy về đâu, chú biết không?” Tiểu Quyên nói vọng lên từ lòng con suối.

“Chẳng biết đâu.”

“Thế nó bắt nguồn từ đâu?”

“Cũng không biết luôn.”

Tôi bần thần. Tôi ngây ngất. Những câu chuyện thần thoại về những dòng suối tiên có tiên nữ xuống tắm hẳn cũng bắt đầu như thế này. Và chuyện những con suối có tiên nữ tắm không còn là chuyện bịa đặt.

“Chú phải biết. Chú ở đây lâu mà.”

Thì đúng thế. Tôi là cư dân thị trấn nhỏ bé này đã hơn mười năm rồi. Tôi có căn nhà nhỏ ở bìa rừng, nơi có tấm bảng Dead End, chỗ tôi gặp Tiểu Quyên lần đầu. Vậy mà cũng ba bốn năm rồi.

“Hở chú?”

“Chắc nó chảy vào Grand River.” Tôi lúng túng nhắc tên con sông chảy ngang thành phố kế cận.”

Tôi gỡ mớ áo quần của Tiểu Quyên khỏi cành phong. Mười ngón tay tẩn mẩn rờ rẫm những mảng rách cố tình mà người ta khoét trên chiếc quần jean làm kiểu. Rồi những ngón tay vuốt từng manh áo, từng mảnh quần, vuốt tất cả mọi thứ cho thẳng thớm. Tôi cuộn tròn chúng lại và ngồi xuống bên gốc cây, ôm cái cuộn ấy vào lòng. Ấm áp, êm đềm và thanh thoát. Mớ áo quần thấm mồ hôi và thoang thoảng mùi hương con gái làm tôi ngây ngất. Tôi nhớ câu nói của người đàn bà khi gói xâu chuỗi ngọc garage sale vào túi giấy trao cho tôi, “Xâu chuỗi ngọc này đem lại sự may mắn.”

“Sao nó không chảy ra biển nhỉ?” Vẫn giọng Tiểu Quyên.

“Cũng có thể nó chảy ra biển.”

“Quyên muốn xuôi dòng theo con suối này bơi ra biển.”

“Biển có sóng, biển không hiền hòa.”

“Quyên thích được làm nàng tiên cá.”

Tôi nhìn thân hình loang loang trong dòng nước, tôi hình dung chiếc đuôi cá của một mỹ nhân ngư, một thoáng vai thuôn, một thoáng ngực tròn, một thoáng lưng cong lấp lánh trong dòng nước mát. Ngàn hoa nắng lung linh. Và tôi không muốn Tiểu Quyên là nàng tiên cá. Dẫu là nàng tiên cá nước ngọt hay nước mặn.

“Sao chú im lặng vậy?”

Tôi giật mình, “Ồ, tại vì…”

“Lát nữa lúc Quyên lên mặc đồ chú lại phải nhắm mắt nữa nhé,” Tiểu Quyên nhắc.

“Nhớ,” tôi thở ra một lời hứa nhỏ. Tôi sẽ nhắm mắt. Tôi sẽ nhắm mắt suốt đời để nghe tiếng vải sột soạt trên da, tiếng mở khóa sợi thắt lưng da, tiếng lạch cạch những viên ngọc trong xâu chuỗi chạm vào nhau khi chiếc áo tuột ra khỏi cổ, tiếng nước quyện đôi bàn chân, tiếng suýt soa khi ngón chân vấp vào viên sỏi sắc cạnh, tiếng thở ra đầy thỏa mãn của một thân thể được tắm gội giữa trưa nồng mùa hạ. Khi nhắm mắt, tôi chìm vào một thế giới khác. Mong manh. Hiền hòa. Và bồng bềnh hạnh phúc. Tôi chợt hiểu vì sao những người khiếm thị vẫn có cuộc sống bình thường, vẫn yêu đương, giận ghét như những kẻ còn nguyên hai con mắt. Bởi thế giới của họ nhiều khi còn đặm sắc màu hơn thể giới của những kẻ bình thường. Trong thoáng chốc, tôi mang cảm giác của người sống được trong cả hai thế giới, thế giới bình thường và thế giới của người mù. Và câu nói của người đàn bà bán garage sale lại vang vọng bên tai: “xâu chuỗi ngọc này đem lại sự may mắn.”

Tôi đang là kẻ may mắn nhất trần gian. Tôi đang ngồi bên bờ con suối trong, canh giữ xiêm y cho một nàng công chúa nhỏ đến từ xứ sở nhiệt đới, xa cả một nửa vòng trái đất, nàng công chúa đồng hương, nàng công chúa lưu lạc xứ người, nàng công chúa - nếu tôi nhớ không lầm thì - vừa mới mừng sinh nhật thứ mười sáu hôm nào.

“Chú mắc dùm quần áo Quyên lên cành cây giống hồi nãy nghe chú.”

Tôi lặng lẽ làm theo.

“Bây giờ chú nhắm mắt lại nè.”

Lại tiếng thân thể quậy nước, tiếng vải áo sột soạt, tiếng gài móc sợi thắt lưng da, tiếng bước chân loạt soạt trên cỏ. Tôi nhắm mắt mãi đến khi Tiểu Quyên tạt nước vào người tôi, giọng cười vui, “Mở mắt được rồi chú ơi,” tôi mới hồi tỉnh.

Bỗng dưng tôi thèm cái nắng gắt gay mùa hạ để tôi cũng có lý do ngâm mình trong lòng suối. Tôi thèm một khung trời đứng gió để nhờ cành phong canh dùm quần áo hai người cho khỏi ướt. Tôi thầm mong con suối không bao giờ cạn, để nàng tiên cá nước ngọt tung tăng suốt mùa hạ. Và để tôi được gỡ những nhánh rong vướng trên tóc ướt, dính bết hai bờ vai thon.

“Mùa hạ ơi, hãy oi nồng thêm chút nữa”, tôi thì thầm.

Trên lối mòn len lỏi ra bìa rừng, Tiểu Quyên hí hửng, “Mình phải đặt tên cho con suối này, chú ạ.”

Tôi gật gù cố nghĩ một cái tên. Lúc Tiểu Quyên ngừng lại để gỡ những gai cỏ vướng vào gấu quần, tôi nói, “Lấy tên Quyên đặt cho con suối được không?”
Tiểu Quyên ngước lên nhìn tôi, ánh cười trong khóe mắt.

Tôi nói, “Mình sẽ gọi đó là Suối Quyên.”

Giọng Tiểu Quyên reo vui, “Tên hay đó chú.”

Suối Quyên. Từ giây phút này con suối nhỏ trong khu rừng hoang của riêng hai chúng tôi đã có một tên gọi. Tôi nghĩ đến việc viết thư yêu cầu hội đồng thị trấn đặt tên Quyên cho con suối ấy. Để mai sau cho dù chúng tôi có lạc mất nhau, con suối vẫn còn đó, và vẫn mang trên mình một cái tên quen.

Ra tới bìa rừng, sát tấm bảng Dead End, Tiểu Quyên chợt đứng sựng lại, “Có khi nào người ta đọc lộn thành Suối Quên không chú?” 
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.