Mũi Tên & Bài Ca

01/11/202400:00:00(Xem: 5459)
 
mũi tên và bài ca
 
Mũi Tên & Bài Ca
 
Tôi bắn mũi tên vào không trung
vào tận nơi nào ở thế gian, tôi không rõ
tên bay nhanh bay xa cao vút, mắt tôi
không theo kịp nỗi đường bay
Tôi thổi bài ca vào không trung,
tiếng hát vang xa tận nơi nào ở thế gian, tôi không rõ
bởi làm gì có cặp mắt nào đủ tinh thông trên cao
xuyên thấu mọi nỗi niềm khúc ca tôi bày tỏ
Lâu ngày sau tôi tình cờ tìm thấy
mũi tên xưa ghim sâu tận gốc sồi;
Và bài ca, từ khúc đầu đến kết
vang lên trong tiếng hát một người quen.
 
 Henry Wadsworth Longfellow - Hòa Bình Lê dịch
 
Bài thơ này đăng trên Việt Báo vào ngày 10 tháng 8 2024. Người dịch nói rằng “…Bài này hợp với tinh thần Phật Giáo…” Tác giả Henry Wadsworth Longfellow là một nhà thơ nổi tiếng vào bậc nhất ở Mỹ trong thế kỷ 19. Trong tiểu sử không thấy nhắc ông có nghiên cứu về Phật Giáo. Có thể giải thích rằng những gì thuộc về chân lý, sự thật thì sẽ mãi mãi tồn tại, bất kể Đức Phật có thuyết giảng hay không.

Vào khoảng thập niên 1740s, nhà nữ toán học người Pháp Émilie du Châtelet đưa ra khái niệm về định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng: Năng lượng không tự nhiên sinh ra cũng không tự nhiên mất đi; nó chỉ truyền từ vật này sang vật khác, chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác. 

Vào năm 1789, nhà hóa học người Pháp Antoine Lavoisier phát biểu định luật bảo toàn khối lượng: "Tất cả những biến đổi xảy ra trong tự nhiên thực chất là nếu lấy đi bao nhiêu ở vật thể này, thì có bấy nhiêu được thêm vào ở vật thể khác. Như vậy, nếu ở đây giảm đi bao nhiêu vật chất, thì sẽ có từng ấy vật chất tăng lên ở chỗ khác".

Đến thời đại Thuyết Tương Đối, nhà bác học thiên tài thế kỷ 20 Albert Einstein kết hợp cả sự bảo toàn và chuyển hóa giữa vật chất và năng lượng trong phương trình E=mc2. Khoa học hiện đại vẫn cho rằng toàn bộ năng-khối-lượng được bảo toàn. Bom nguyên tử cùng năng lượng hạt nhân ra đời, đem lại cho nhân loại cả niềm tin lẫn nỗi lo.

Vào khoảng 26 thế kỷ trước, Đức Phật dạy rằng vạn pháp trong vũ trụ này trùng trùng duyên khởi. Đối với con người, tất cả những gì chúng ta đã từng nghĩ, nói, hành động sẽ chẳng biến vào hư không. Nó sẽ được lưu giữ lại trong nghiệp thức, hoặc ảnh hưởng đến những người chung quanh mà có khi chúng ta không hề hay biết. Tâm cũng là một dạng năng lượng.

Trở lại với bài thơ Mũi Tên & Bài Ca theo góc nhìn văn học, bài thơ làm cho tôi trở nên yêu người, yêu đời. Nó làm cho tâm hồn tôi thăng hoa, giống như cách đây hơn 40 năm khi nghe anh Trần Đại Lộc kể một câu chuyện đầy nhân bản. Anh cho biết thường kể câu chuyện này cho học sinh của mình nghe trong giờ triết học, để nhắc nhở mỗi người phải chịu trách nhiệm về hành vi, lời nói của mình. Đại khái câu chuyện đó như sau: một anh chàng thanh niên tuổi học trò tính tình nhút nhát, đầy mặc cảm vì nghĩ mình không có gì hấp dẫn, đáng chú ý. Anh sống khép kín từ trong gia đình cho đến trường học, không muốn giao tiếp với ai. Cha mẹ, thầy cô đều lo lắng cho anh. Đến một ngày nọ, anh đạp xe từ trường về nhà, thì cô gái đẹp anh từng để ý bấy lâu nay đi theo chiều ngược lại bỗng nhìn anh mỉm cười âu yếm. Anh giật mình! Mình có gì đặc biệt mà tại sao cô gái lại cười với mình? Như vậy có phải là mình thực sự xấu xí, vô duyên hay không? Tự nhiên những nỗi mặc cảm bao lâu nay vơi đi nhiều, anh dự định sẽ có dịp làm quen với cô gái.

Về đến nhà, anh niềm nở chào mẹ, hỏi rằng đã có cơm chưa, anh đói bụng rồi. Vô cùng ngạc nhiên trước sự thay đổi bất ngờ của con mình, mẹ anh bảo rằng cơm đã gần xong, đợi cha về gia đình sẽ ăn cơm chung. Bà làm thêm một món ngon đặc biệt. Buổi cơm chiều hôm đó, cha anh cũng rất vui khi thấy anh hoạt bát, nói chuyện trong khi ăn. Cơm ngon, khung cảnh gia đình đầm ấm tạo niềm hứng khởi, nên tối hôm đó cha mẹ anh có một buổi ái ân hạnh phúc.

Hôm sau, anh đến trường, giơ tay xin phát biểu trong giờ học văn. Thầy anh ngạc nhiên quá đỗi! Điều gì đã xảy ra với cậu học trò nhút nhát của mình? Vui với cậu học trò, thầy đã có một buổi giảng văn chương thật hay, làm cả lớp được hưởng theo.

Đến ngày Chủ Nhật, sau bao năm vắng bóng, lần đầu tiên anh theo cha mẹ đi lễ nhà thờ. Đến lượt vị linh mục chủ lễ ngạc nhiên và thích thú, vì lâu lắm rồi mới thấy gia đình này đi lễ chung với nhau. Vì vui, ông đã có một buổi thuyết giảng thật hay cho tất cả những giáo dân trong xóm đạo có mặt trong thánh lễ.

Một nụ cười, có khi chỉ là vô tình của một cô gái đã đem lại hạnh phúc cho biết bao người khác. Chính cô gái cũng không biết được những điều tốt lành mà mình tạo ra cho biết bao người không quen biết.

Một câu chuyện khác cũng về một người cũng đi gieo hạt mầm hạnh phúc cho muôn người đó là Jonny Appleseed. Ông là một nhân vật có thật của lịch sử Mỹ từ thời bắt đầu di dân về phía Tây. Hãng phim Walt Disney có dựng một bộ phim hoạt hình về nhân vật huyền thoại này (https://www.dailymotion.com/video/xi99je ), người đã đi trên những nẻo đường đất nước suốt 40 năm với hành trang chỉ là một túi hạt giống táo và cuốn Kinh Thánh. Jonny xuất thân là một nông dân trồng táo. Nhìn những đoàn người di dân về Miền Tây, ông quyết định tự mình đi gieo hạt để tạo nên những đồn điền táo trên đường đi của họ. Ước mơ của Jonny là trong tương lai những cánh đồng táo của mình sẽ là nơi dừng chân của những đoàn người đi khai phá đất nước. Ra đi từ khi còn trai trẻ, lúc trở về đã thành một ông già đầu bạc. Jonny chứng kiến cảnh những ngôi làng của di dân xây dựng quanh cánh đồng táo của mình. Họ có một cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Họ nhảy múa bên nhau trong những buổi tiệc mà trên bàn có bánh nhân táo, có nước táo như là quà tặng của thiên nhiên. Nhiều người không biết những gì họ có được trong hiện tại là công khó của một tấm lòng nhân hậu bắt đầu từ nhiều năm trước.

Trong một buổi nói chuyện với học trò, Thầy Phước Tịnh có kể câu chuyện về những bài giảng của mình trên internet đã cứu cuộc đời của những người mà Thầy chưa bao giờ gặp. Một Phật tử trẻ ở Việt Nam đã liên lạc để cảm ơn Thầy. Anh kể rằng có một dạo anh thất tình, tâm trí đảo điên. Nỗi tuyệt vọng xâm chiếm toàn bộ ý nghĩ của anh cả ngày lẫn đêm, đến độ đã có lần anh định tự tử. Anh tự nhủ phải tìm một cách nào đó để thoát ra khỏi tình cảnh này. May sao, anh nghe được bài giảng của Thầy trên internet về Sự Nhận Biết. Không ngờ, phương pháp này đã cứu cuộc đời của anh. Anh tập là người quan sát nỗi tuyệt vọng, và tự nhắc nhở rằng “Nỗi tuyệt vọng này không phải là ta. Ta là người quan sát nó. Nỗi tuyệt vọng đến rồi sẽ đi qua…” Sự Nhận Biết giống như chủ nhân của ngôi nhà tâm thức, còn nỗi tuyệt vọng là khách mời. Nếu chủ nhà không giữ chân, khách sẽ phải ra đi. Thế là dần dần, anh vượt qua được khủng hoảng, trở lại cuộc sống bình thường. Sau này anh tự nhủ tại sao mình có thể dại đến độ định tự tử chỉ vì thất tình. Từ đó, anh tìm thêm những bài giảng của Thầy để học, tiếp tục thực hành phương pháp thắp sáng Sự Nhận Biết trong đời sống.

Khi dùng hai hình tượng “mũi tên” và “bài ca”, tác giả có thể ẩn dụ đến hai phạm trù đối nghịch: một bên là những hành vi có tác động tiêu cực, một bên là có tính thăng hoa. Riêng bản thân tôi, cùng với những bài hát thương yêu, nhưng tôi lại từng gây ra cả điều tốt và xấu cho người khác. Thuở còn đi học, tôi có để ý một cô bé học sinh ở hẻm gần nhà. Chúng tôi chỉ gặp nhau một vài lần qua một người quen chung. Tuổi trẻ mộng mơ, chuyện tình cảm lớn nhỏ gì cũng có thể làm thơ, làm nhạc. Tôi có sáng tác một tình khúc, chép lại thành bản nhạc, rồi kẹp vào một cuốn sách toán cho cô mượn để học thi. Chỉ có vậy thôi, sau đó tôi không còn để ý đến nữa. Thế rồi hơn 30 năm sau, người quen của tôi ở con hẻm nhà cô bé tình cờ gặp lại tôi ở Mỹ. Cô này hỏi: “Anh có biết là đã làm chị P. đau khổ không?” Dĩ nhiên tôi trả lời là không! Người bạn kể rằng sau này P. lập gia đình, nhưng tâm trí có vẻ không bình thường, có triệu chứng bệnh tâm thần. Chồng cô phát hiện ra có lần cô lên internet gõ tên tôi, tìm xem tôi đang ở đâu. Cô còn nói lẩm bẩm một mình “người đâu chỉ tặng một bài nhạc rồi đi đâu mất!” Chồng cô hỏi thăm người bạn có biết tôi là ai, đang ở đâu hay không. Tôi bàng hoàng! Đâu có ngờ chỉ một giây phút lãng mạn, nhẹ nhàng, chỉ với một hành động tưởng như vô hại lại làm cho một người giữ niềm nhung nhớ đến 30 năm sau!

Cũng chỉ với những bài hát, nhưng tôi lại có được cảm giác hạnh phúc vì chia sẻ được với những người không quen. Thuở học Thầy Phước Tịnh về ý nghĩa của 10 bức tranh chăn trâu Thiền Tông, tôi cảm hứng phổ nhạc 10 bài thi kệ “Thập Mục Ngưu Đồ”, bản dịch của Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ. Trong những buổi Pháp thoại, sau khi Thầy Phước Tịnh giảng, tôi tập cho đại chúng hát những bài này để dễ nhớ ý nghĩa của chúng. Tôi đưa 10 bài thiền ca chăn trâu lên Youtube, với hy vọng chia sẻ với những ai đang thực hành thiền. Vài năm sau, tình cờ xem trên Youtube, tôi thấy các bạn trẻ trong nhóm Ban Đạo Ca Trẻ Chùa Giác Ngộ ở Sài Gòn hát lại những bài thiền ca này. Nhìn những gương mặt trẻ chưa hề quen biết hát, bên dưới là đại chúng ngồi lắng nghe, lòng tôi cảm thấy an lạc. Không biết họ cảm nhận được bao nhiêu ý nghĩa của thiền ca chăn trâu, nhưng cảm giác mình đã làm một điều gì đó cho đạo, cho đời là một niềm hạnh phúc không dễ có được.

Như vậy không phải là chỉ có mũi tên mới làm tổn thương, và chỉ có bài ca mới đem lại niềm hạnh phúc cho người khác. Bài ca có khi cũng có tác động như mũi tên. Cả Đức Phật và Albert Einstein đều nhắc đến tính tương đối của vạn vật.

Chỉ với một bài thơ ngắn ngủi, mà biết bao nhiêu ý nghĩa miên man trong đầu… Tôi nghĩ trong thời buổi nhiễu nhương, đầy sân hận như hiện nay, nếu mỗi con người đều có ý thức về của từng lời nói, hành động của mình, về hạnh phúc hay khổ đau mà chúng có thể đem lại cho người khác, thế giới này sẽ tốt đẹp hơn nhiều…
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thiên Lý Độc Hành, là tựa một tập thơ của Thầy, và cũng là bốn chữ được viết treo trên hương án của Thầy tại chùa Phật Ân, huyện Long Thành, nơi Thầy ở vào những năm tháng cuối đời. Thiên lý độc hành, hình ảnh biểu trưng nhất về Thầy Tuệ Sỹ, muôn dặm cô lữ dằng dặc nỗi ưu tư phận nhà vận nước…Và, khó làm sao để tường tận cái chấp chới của vạt áo tỳ khưu đẫm ánh trăng đêm, thấp thoáng ẩn hiện Người và cõi thơ tịnh tĩnh. Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở/ Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan... Hỏi, tại sao, vì đâu, lòng muối kiên định... để bất khuất chưa tan?
Tháng tư nắng quái trên tàng lá / Ngày nóng rang, khô khốc tiếng người / Nước mắt ướt đầm trên mắt mẹ / Nghìn đêm ai khóc nỗi đầy vơi? / Tháng tư em dắt con ra biển / Hướng về nam theo sóng nổi trôi / Thôi cũng đành, xuôi triều nước lớn / Làm sao biết được, trôi về đâu?
Dù đứng bên bờ vực của tận diệt, con người vẫn có thể cứu chuộc chính mình bằng ngôn từ và ký ức, đó là tinh thần của giải Nobel Văn Chương năm nay. Trong ánh sáng của niềm tin, Việt Báo đăng lại bài thơ “Hãy để nước Mỹ lại là nước Mỹ” của Langston Hughes – một khúc ca vừa đau đớn vừa thiết tha, viết gần một thế kỷ trước, mà như viết cho thời đại ngày nay. Giấc mơ Hughes gọi tên lại vang lên – giấc mơ về một xứ sở nơi lời hứa của nước Mỹ là hơi thở chung của những người cùng dựng lại niềm tin vào công lý, vào tự do, vào chính con người.
Đọc thơ Nguyễn Xuân Thiệp, nhất là trong tập Tôi Cùng Gió Mùa, nếu cho là chủ quan, tôi vẫn nói rằng, Khí thơ của Nguyễn Xuân Thiệp là khí thu. Trăng ở thơ đó là trăng thu. Gió ở thơ đó mang cái hắt hiu thu. Không biết tại sao, chỉ thấy Khi đọc thơ Nguyễn Xuân Thiệp tôi lại liên tưởng đến cảm xúc của Trương Trào trong U Mộng Ảnh xưa: “Thơ và văn được như cái khí mùa thu thì là hay.”. Nguyễn Xuân Thiệp, xuất hiện lần đầu tiên trên dòng thơ của văn học miền Nam Việt Nam vào năm 1954 trên Thẩm Mỹ Tuần Báo với bài thơ Nhịp Bước Mùa Thu. Bài thơ tính đến lúc này là 71 năm -tiếng thở dài một đời người-, hôm nay tôi đọc lại, cảm xúc vẫn bị lay động bởi hình ảnh u buồn của lịch sử vào thời gian xa xăm đó.
Nguyên Yên, một trong những nhà thơ đương đại nổi tiếng ở hải ngoại. Cô chưa in một tập thơ nào, chỉ xuất hiện trên một số trang web như Việt Báo, Văn Việt, Hợp Lưu, Blog Trần thị Nguyệt Mai, Phố Văn… Ngoài những bài viết về thời sự, bình luận ký tên thật Nina Hòa Bình Lê với cái nhìn sắc bén và nhân ái, người đọc còn được biết đến Thơ của cô, với bút danh Nguyên Yên. Một tiếng thơ gây ngạc nhiên bởi ý tưởng, hình ảnh độc đáo, giản dị, mạnh mẽ, trữ tình. Tôi thực sự bị dòng thơ này lôi cuốn.
Theo đại thi hào R.Tagore "Cũng như nụ cười và nước mắt, thực chất của thơ là phản ánh một cái gì đó hoàn thiện từ bên trong". Theo tác giả cổ đại Ovid (khoảng năm 43 trước Công Nguyên) thì: “Có ít nhiều sự thoải mái trong cơn khóc”. Thi sĩ Colley khẳng định: “Lời nói để khóc và nước mắt để nói” Thi sĩ người Pháp Alfred de Musset có câu thơ: “Cái duy nhất còn lại cho tôi ở trên đời/ Chính là những lúc đã đôi lần nhỏ lệ”. Thi sĩ người Anh Robert Herrick: “Giọt lệ chính là ngôn ngữ cao quý của đôi mắt” .Nhà thơ trẻ Nepal, Santosh Kalwar tâm sự: Tôi đã mỉm cười ngày hôm qua. Tôi đang mỉm cười ngày hôm nay và khi ngày mai đến, tôi sẽ mỉm cười. Vì đơn giản, cuộc sống quá ngắn để ta khóc về mọi thứ – Và ai đó đã cho rằng: Không có gì đẹp hơn một nụ cười đã trải qua những giọt nước mắt.
Trong tập Bốn Mùa Trời và Đất, Márai Sándor cảm giác về mùa hè, …Tôi đứng trên ban công, giữa một vùng xanh, nghe tiếng rì rào thức dậy của cây cỏ. Mùa hè đây rồi, tôi nghĩ; và nó giống như một cảm xúc tràn ngập trong tôi, không khoan nhượng, và đầy những kỷ niệm giản dị… (Giáp Văn Chung dịch) Trong tản văn Hoa Nở Vì Ai, Vũ Hoàng Thư viết, …Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm… Và mùa hè trong truyện của Đặng Thơ Thơ, … Đó là lúc chín nhất của mùa hè. Những trái táo bắt đầu căng mật. Từ trong lá cây thoảng ra những ngọn gió màu xanh thẫm...Ở Cảnh Nhàn của Bạch Vân Cư Sĩ có thú sống, xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao…, có lẽ thời của người, nước còn trong ao còn sạch.
Bạn đang nghe thấy gì trong khí hậu tháng Tư? / Tiếng kêu từ đáy huyệt cuối trời. / Tiếng gió xoáy những cột cờ tử thương tuẫn tiết. / Tiếng phố vỡ triệu mảnh thủy tinh cắt lồng ngực tháng tư rỉ máu mãi chưa khô. / Tiếng sóng hôi dao mùi hải tặc từ oan nghiệt một thời biển huyết. / Tiếng oan hồn dật dờ tìm về cố quận, đáy vực kia bầy cá hoang tảo mộ. / Tiếng hậu chấn từ tâm hồn con dân tháng Tư choàng lên thảng thốt. Dấu chàm xanh lưu xứ để nhận ra nhau. / Tiếng con bướm gáy trong giấc ngủ đôi bờ chiến tuyến. / Tiếng vô vọng của dòng thơ đớn đau, sỉ nhục trải dài trên đất đai tổ quốc. /Tiếng mong mỏi trên những dòng thơ đang vuốt mắt lịch sử, xin hãy chết yên, chết quên, và mở lòng ra ôm những vết thương, trồng lại bóng Quê Nhà…
“Chìm trong biển chết trôi tim người / Còn gì đâu tiếc thương xa xôi …” Chiếc tàu nhỏ rời bến Constantine, Algeria, chở Enrico Macias đến một nơi xa lạ, người lưu vong không bao giờ được phép trở về. Làm sao cánh chim di có thể quên lối cũ? Chiến tranh xua đuổi ông ra khỏi quê nhà. Tàu khởi hành không một người đưa tiễn. “Người tình ơi, ta xa nhau. Mượn đôi mắt em lên đường.” Với cây guitar làm hành trang, ông ghi lại, “J'ai quitté mon pays …”
Hãy tạm để những chuyện buồn nằm im dưới mâm cỗ ngày Tết, để ta chỉ được thấy màu xanh lá bánh chưng, màu đỏ ối ruột dưa hấu, màu vàng đỏ tung xòe trong những bao lì xì nhỏ, màu nắng chín nhấp nháy trên những trái quất… bây nhiêu đó có đủ để bạn đón hơi thở mới của đất trời? Hy vọng vậy để chúng ta được mọc lên như cỏ non trên khung rêu ngày tháng cũ. Bài thơ của Nguyễn Hồng Kiên tôi đọc được từ trang của trường Mầm Non Cự Khối, bài thơ được dạy cho các em lứa 4 tuổi, như một lời chúc tết hồn nhiên.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.