Mũi Tên & Bài Ca

01/11/202400:00:00(Xem: 5454)
 
mũi tên và bài ca
 
Mũi Tên & Bài Ca
 
Tôi bắn mũi tên vào không trung
vào tận nơi nào ở thế gian, tôi không rõ
tên bay nhanh bay xa cao vút, mắt tôi
không theo kịp nỗi đường bay
Tôi thổi bài ca vào không trung,
tiếng hát vang xa tận nơi nào ở thế gian, tôi không rõ
bởi làm gì có cặp mắt nào đủ tinh thông trên cao
xuyên thấu mọi nỗi niềm khúc ca tôi bày tỏ
Lâu ngày sau tôi tình cờ tìm thấy
mũi tên xưa ghim sâu tận gốc sồi;
Và bài ca, từ khúc đầu đến kết
vang lên trong tiếng hát một người quen.
 
 Henry Wadsworth Longfellow - Hòa Bình Lê dịch
 
Bài thơ này đăng trên Việt Báo vào ngày 10 tháng 8 2024. Người dịch nói rằng “…Bài này hợp với tinh thần Phật Giáo…” Tác giả Henry Wadsworth Longfellow là một nhà thơ nổi tiếng vào bậc nhất ở Mỹ trong thế kỷ 19. Trong tiểu sử không thấy nhắc ông có nghiên cứu về Phật Giáo. Có thể giải thích rằng những gì thuộc về chân lý, sự thật thì sẽ mãi mãi tồn tại, bất kể Đức Phật có thuyết giảng hay không.

Vào khoảng thập niên 1740s, nhà nữ toán học người Pháp Émilie du Châtelet đưa ra khái niệm về định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng: Năng lượng không tự nhiên sinh ra cũng không tự nhiên mất đi; nó chỉ truyền từ vật này sang vật khác, chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác. 

Vào năm 1789, nhà hóa học người Pháp Antoine Lavoisier phát biểu định luật bảo toàn khối lượng: "Tất cả những biến đổi xảy ra trong tự nhiên thực chất là nếu lấy đi bao nhiêu ở vật thể này, thì có bấy nhiêu được thêm vào ở vật thể khác. Như vậy, nếu ở đây giảm đi bao nhiêu vật chất, thì sẽ có từng ấy vật chất tăng lên ở chỗ khác".

Đến thời đại Thuyết Tương Đối, nhà bác học thiên tài thế kỷ 20 Albert Einstein kết hợp cả sự bảo toàn và chuyển hóa giữa vật chất và năng lượng trong phương trình E=mc2. Khoa học hiện đại vẫn cho rằng toàn bộ năng-khối-lượng được bảo toàn. Bom nguyên tử cùng năng lượng hạt nhân ra đời, đem lại cho nhân loại cả niềm tin lẫn nỗi lo.

Vào khoảng 26 thế kỷ trước, Đức Phật dạy rằng vạn pháp trong vũ trụ này trùng trùng duyên khởi. Đối với con người, tất cả những gì chúng ta đã từng nghĩ, nói, hành động sẽ chẳng biến vào hư không. Nó sẽ được lưu giữ lại trong nghiệp thức, hoặc ảnh hưởng đến những người chung quanh mà có khi chúng ta không hề hay biết. Tâm cũng là một dạng năng lượng.

Trở lại với bài thơ Mũi Tên & Bài Ca theo góc nhìn văn học, bài thơ làm cho tôi trở nên yêu người, yêu đời. Nó làm cho tâm hồn tôi thăng hoa, giống như cách đây hơn 40 năm khi nghe anh Trần Đại Lộc kể một câu chuyện đầy nhân bản. Anh cho biết thường kể câu chuyện này cho học sinh của mình nghe trong giờ triết học, để nhắc nhở mỗi người phải chịu trách nhiệm về hành vi, lời nói của mình. Đại khái câu chuyện đó như sau: một anh chàng thanh niên tuổi học trò tính tình nhút nhát, đầy mặc cảm vì nghĩ mình không có gì hấp dẫn, đáng chú ý. Anh sống khép kín từ trong gia đình cho đến trường học, không muốn giao tiếp với ai. Cha mẹ, thầy cô đều lo lắng cho anh. Đến một ngày nọ, anh đạp xe từ trường về nhà, thì cô gái đẹp anh từng để ý bấy lâu nay đi theo chiều ngược lại bỗng nhìn anh mỉm cười âu yếm. Anh giật mình! Mình có gì đặc biệt mà tại sao cô gái lại cười với mình? Như vậy có phải là mình thực sự xấu xí, vô duyên hay không? Tự nhiên những nỗi mặc cảm bao lâu nay vơi đi nhiều, anh dự định sẽ có dịp làm quen với cô gái.

Về đến nhà, anh niềm nở chào mẹ, hỏi rằng đã có cơm chưa, anh đói bụng rồi. Vô cùng ngạc nhiên trước sự thay đổi bất ngờ của con mình, mẹ anh bảo rằng cơm đã gần xong, đợi cha về gia đình sẽ ăn cơm chung. Bà làm thêm một món ngon đặc biệt. Buổi cơm chiều hôm đó, cha anh cũng rất vui khi thấy anh hoạt bát, nói chuyện trong khi ăn. Cơm ngon, khung cảnh gia đình đầm ấm tạo niềm hứng khởi, nên tối hôm đó cha mẹ anh có một buổi ái ân hạnh phúc.

Hôm sau, anh đến trường, giơ tay xin phát biểu trong giờ học văn. Thầy anh ngạc nhiên quá đỗi! Điều gì đã xảy ra với cậu học trò nhút nhát của mình? Vui với cậu học trò, thầy đã có một buổi giảng văn chương thật hay, làm cả lớp được hưởng theo.

Đến ngày Chủ Nhật, sau bao năm vắng bóng, lần đầu tiên anh theo cha mẹ đi lễ nhà thờ. Đến lượt vị linh mục chủ lễ ngạc nhiên và thích thú, vì lâu lắm rồi mới thấy gia đình này đi lễ chung với nhau. Vì vui, ông đã có một buổi thuyết giảng thật hay cho tất cả những giáo dân trong xóm đạo có mặt trong thánh lễ.

Một nụ cười, có khi chỉ là vô tình của một cô gái đã đem lại hạnh phúc cho biết bao người khác. Chính cô gái cũng không biết được những điều tốt lành mà mình tạo ra cho biết bao người không quen biết.

Một câu chuyện khác cũng về một người cũng đi gieo hạt mầm hạnh phúc cho muôn người đó là Jonny Appleseed. Ông là một nhân vật có thật của lịch sử Mỹ từ thời bắt đầu di dân về phía Tây. Hãng phim Walt Disney có dựng một bộ phim hoạt hình về nhân vật huyền thoại này (https://www.dailymotion.com/video/xi99je ), người đã đi trên những nẻo đường đất nước suốt 40 năm với hành trang chỉ là một túi hạt giống táo và cuốn Kinh Thánh. Jonny xuất thân là một nông dân trồng táo. Nhìn những đoàn người di dân về Miền Tây, ông quyết định tự mình đi gieo hạt để tạo nên những đồn điền táo trên đường đi của họ. Ước mơ của Jonny là trong tương lai những cánh đồng táo của mình sẽ là nơi dừng chân của những đoàn người đi khai phá đất nước. Ra đi từ khi còn trai trẻ, lúc trở về đã thành một ông già đầu bạc. Jonny chứng kiến cảnh những ngôi làng của di dân xây dựng quanh cánh đồng táo của mình. Họ có một cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Họ nhảy múa bên nhau trong những buổi tiệc mà trên bàn có bánh nhân táo, có nước táo như là quà tặng của thiên nhiên. Nhiều người không biết những gì họ có được trong hiện tại là công khó của một tấm lòng nhân hậu bắt đầu từ nhiều năm trước.

Trong một buổi nói chuyện với học trò, Thầy Phước Tịnh có kể câu chuyện về những bài giảng của mình trên internet đã cứu cuộc đời của những người mà Thầy chưa bao giờ gặp. Một Phật tử trẻ ở Việt Nam đã liên lạc để cảm ơn Thầy. Anh kể rằng có một dạo anh thất tình, tâm trí đảo điên. Nỗi tuyệt vọng xâm chiếm toàn bộ ý nghĩ của anh cả ngày lẫn đêm, đến độ đã có lần anh định tự tử. Anh tự nhủ phải tìm một cách nào đó để thoát ra khỏi tình cảnh này. May sao, anh nghe được bài giảng của Thầy trên internet về Sự Nhận Biết. Không ngờ, phương pháp này đã cứu cuộc đời của anh. Anh tập là người quan sát nỗi tuyệt vọng, và tự nhắc nhở rằng “Nỗi tuyệt vọng này không phải là ta. Ta là người quan sát nó. Nỗi tuyệt vọng đến rồi sẽ đi qua…” Sự Nhận Biết giống như chủ nhân của ngôi nhà tâm thức, còn nỗi tuyệt vọng là khách mời. Nếu chủ nhà không giữ chân, khách sẽ phải ra đi. Thế là dần dần, anh vượt qua được khủng hoảng, trở lại cuộc sống bình thường. Sau này anh tự nhủ tại sao mình có thể dại đến độ định tự tử chỉ vì thất tình. Từ đó, anh tìm thêm những bài giảng của Thầy để học, tiếp tục thực hành phương pháp thắp sáng Sự Nhận Biết trong đời sống.

Khi dùng hai hình tượng “mũi tên” và “bài ca”, tác giả có thể ẩn dụ đến hai phạm trù đối nghịch: một bên là những hành vi có tác động tiêu cực, một bên là có tính thăng hoa. Riêng bản thân tôi, cùng với những bài hát thương yêu, nhưng tôi lại từng gây ra cả điều tốt và xấu cho người khác. Thuở còn đi học, tôi có để ý một cô bé học sinh ở hẻm gần nhà. Chúng tôi chỉ gặp nhau một vài lần qua một người quen chung. Tuổi trẻ mộng mơ, chuyện tình cảm lớn nhỏ gì cũng có thể làm thơ, làm nhạc. Tôi có sáng tác một tình khúc, chép lại thành bản nhạc, rồi kẹp vào một cuốn sách toán cho cô mượn để học thi. Chỉ có vậy thôi, sau đó tôi không còn để ý đến nữa. Thế rồi hơn 30 năm sau, người quen của tôi ở con hẻm nhà cô bé tình cờ gặp lại tôi ở Mỹ. Cô này hỏi: “Anh có biết là đã làm chị P. đau khổ không?” Dĩ nhiên tôi trả lời là không! Người bạn kể rằng sau này P. lập gia đình, nhưng tâm trí có vẻ không bình thường, có triệu chứng bệnh tâm thần. Chồng cô phát hiện ra có lần cô lên internet gõ tên tôi, tìm xem tôi đang ở đâu. Cô còn nói lẩm bẩm một mình “người đâu chỉ tặng một bài nhạc rồi đi đâu mất!” Chồng cô hỏi thăm người bạn có biết tôi là ai, đang ở đâu hay không. Tôi bàng hoàng! Đâu có ngờ chỉ một giây phút lãng mạn, nhẹ nhàng, chỉ với một hành động tưởng như vô hại lại làm cho một người giữ niềm nhung nhớ đến 30 năm sau!

Cũng chỉ với những bài hát, nhưng tôi lại có được cảm giác hạnh phúc vì chia sẻ được với những người không quen. Thuở học Thầy Phước Tịnh về ý nghĩa của 10 bức tranh chăn trâu Thiền Tông, tôi cảm hứng phổ nhạc 10 bài thi kệ “Thập Mục Ngưu Đồ”, bản dịch của Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ. Trong những buổi Pháp thoại, sau khi Thầy Phước Tịnh giảng, tôi tập cho đại chúng hát những bài này để dễ nhớ ý nghĩa của chúng. Tôi đưa 10 bài thiền ca chăn trâu lên Youtube, với hy vọng chia sẻ với những ai đang thực hành thiền. Vài năm sau, tình cờ xem trên Youtube, tôi thấy các bạn trẻ trong nhóm Ban Đạo Ca Trẻ Chùa Giác Ngộ ở Sài Gòn hát lại những bài thiền ca này. Nhìn những gương mặt trẻ chưa hề quen biết hát, bên dưới là đại chúng ngồi lắng nghe, lòng tôi cảm thấy an lạc. Không biết họ cảm nhận được bao nhiêu ý nghĩa của thiền ca chăn trâu, nhưng cảm giác mình đã làm một điều gì đó cho đạo, cho đời là một niềm hạnh phúc không dễ có được.

Như vậy không phải là chỉ có mũi tên mới làm tổn thương, và chỉ có bài ca mới đem lại niềm hạnh phúc cho người khác. Bài ca có khi cũng có tác động như mũi tên. Cả Đức Phật và Albert Einstein đều nhắc đến tính tương đối của vạn vật.

Chỉ với một bài thơ ngắn ngủi, mà biết bao nhiêu ý nghĩa miên man trong đầu… Tôi nghĩ trong thời buổi nhiễu nhương, đầy sân hận như hiện nay, nếu mỗi con người đều có ý thức về của từng lời nói, hành động của mình, về hạnh phúc hay khổ đau mà chúng có thể đem lại cho người khác, thế giới này sẽ tốt đẹp hơn nhiều…
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
LTS: “19 Hè 72” là một bài trường ca của nhà thơ Ngu Yên viết về chiến tranh Việt Nam với những hình ảnh thống khổ và chết chóc đau thương do chiến tranh gây nên. Và để tri ân người lính Việt Nam Cộng Hòa. Khác với những trường ca thường thấy trước đây, nhà thơ đã kết hợp một cách sáng tạo giữa thi ca với tài liệu từ những trang bút ký, hình ảnh chiến tranh, ca khúc, thậm chí quân sử, để thơ không chỉ là những câu chữ thuần túy nữa, mà là một bức tranh linh động và xúc động khiến người đọc không khỏi bồi hồi khi đọc, dù những điều được nhắc đến trong bài thơ xảy ra cách nay đã trên nửa thế kỷ. Việt Báo trân trọng giời thiệu.
Dấu thời gian để lại trên con đường nó đi qua là tàn phai, là những đổi thay tác động vào tâm thái vui buồn của ta, tạo nên hoài niệm, và ước mơ. Vậy cái lúc đang thở, bạn có biết thời gian đang có mặt không, và có nhìn kỹ người bạn đồng hành ấy không. Phải chăng lúc dừng lại đó là ta đang thức cùng hiện tại? Trong Kinh Người Biết Sống Một Mình, Đức Phật dạy: Đừng tìm về quá khứ/ Đừng tưởng tới tương lai/ Quá khứ đã không còn/ Tương lai thì chưa tới/ Hãy quán chiếu sự sống/ Trong giờ phút hiện tại/ Kẻ thức giả an trú/ Vững chãi và thảnh thơi.
Gió gỡ bóng tối rừng thông./ Sáng trăng lang bạt theo dòng lân tinh./ Suốt ngày đuổi bắt ái tình./ Sương mù nhảy múa bóng hình yêu đương./ Hải âu lạc cánh tây phương./ Cao, cao, ngọn nến dễ thường ngôi sao.
Đó là câu kết một bài thơ của nhà thơ Iya Kiva, là một trong nhiều nhà thơ trẻ Ukraine hiện nay. Bà đã dùng câu thơ “Tháng hai. Lấy mực ra và khóc” của thi hào Nga Boris Pasternak (February. Get ink and weep!) để làm tựa đề cho ba bài thơ của bà. Cùng với các nhà thơ Ukraine khác như, Taras Shevchenko, Pavlo Vyshebaba, Oksana Zabuzhko, chúng ta thấm thía hơn thân phận dân tộc Ukraine, máu và nước mắt họ làm cháy bỏng trái tim thế giới.
Từ những ý nghĩa của bút hiệu Nhã Ca, tôi có thể viết ra một đoạn bói số mệnh nhà thơ:“Nhã Ca: tuy là một loài cỏ dại, nhưng có tiếng thơ thanh thoát tao nhã bên ngoài, bên trong chứa đầy nghịch ngợm, khác thường. Trải qua cuộc sống thăng trầm, tiếng thơ trở thành tiếng ho, tiếng nôn mửa, rồi tiếng thơ đó, về chiều, lắng đọng thành âm điệu cà sa.” Tác phẩm “Nhã Ca, Thơ” toàn tập cho phép tôi có cái nhìn tổng thể và cũng trả lời được nỗi niềm thắc mắc của cậu học trò mới lớn, khi đọc bài thơ “Vết Thẹo.”Từ tuổi thiếu niên vươn lên tuổi thanh niên, ngoài trừ thân xác nẩy nở, trí tuệ cũng gia tăng tò mò và tưởng tượng. Hầu hết, tò mò tưởng tượng lúc đó, hướng về phụ nữ, đối với tôi là một nhân vật thần bí. Khi vô tình đọc được bài thơ “Vết Thẹo”, tôi vô cùng sửng sốt. Tôi sống tự do trong thân thể mình / Nghe vết thẹo lớn dần và mọc rễ.” Đọc lên, nghe vừa lạ lùng, vừa khiêu khích, vừa bí mật.
Chúng giết người vào buổi sớm mai/ Sáng Mồng Hai, ngày Tết / Chúng giết người không ghê tay,/ không giấu mặt./Những hàng xóm, phố xưa quen biết lâu dài, /chung tộc họ, tính danh, gia cảnh / Chúng giết người bởi quyết tâm định sẵn / "Đường vinh quang xây xác quân thù /Lềnh loang màu cờ thẫm máu.
Một sáng mùa Xuân ngập ánh hồng, / Một cung đàn ấm khắp Tây, Đông. / Một rừng thông điểm trời mây biếc, / Một vũng vàng tô biển nước trong. / Một khối bao la hoa lá trổ, / Một bầu bát ngát sắc hương nồng. / Một tia nắng đẹp soi muôn cõi / Một chữ là mang một tấc lòng.
Thưa người nước mắt bình minh/ Cái trong veo để phục sinh lại đời / Thưa người những bước rong chơi / Đưa nhau ngàn dặm nụ cười tung tăng / Sóng cao vực thẳm thưa rằng / Chân con kiến bé cứ lằng lặng đi / Mùa nào hút cánh thiên di /Qua sông núi biếc. Sợ gì nắng mưa
Trong vũ điệu day dứt của hoang mạc gió, lữ khách dừng lại, gõ cửa. Căn nhà trống mùa đông. Bàn tay lạnh quẹt một que diêm, nhen lên nỗi buồn, thảng thốt những ước mơ ngày cũ theo tro bụi bay lên, buồn bã như những lời em sắp nói, như ánh lửa lụi tàn, như tuổi thơ đi qua… Có tiếng chuông xa đâu vọng về, đơm hoa trong bóng tối lời nguyện cầu, lữ khách cảm thấy móng vuốt của băng giá tan ra bởi niềm khát khao cháy bỏng… Tuyết rơi trên ô cửa sổ, lấp lánh một nỗi chờ.
Khi mặt trời bỏ đi / tuyết đầu mùa tìm đến / những cánh tay màu trắng / cầm trái tim trẻ em
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.