Hôm nay,  

Tôi Đi Nam Cực

15/02/202514:01:00(Xem: 6572)

 

IMG_8418

                                                                         

Chuyến hải hành của chúng tôi bắt đầu bằng câu chuyện tình yêu thương vô bờ bến của loài chim Cánh Cụt (Penguins). Ngày đó, tôi được coi một bộ phim tài liệu ngắn, gọn, nhưng chi tiết, tràn trề xúc động và thật ấm áp nói về loài chim có một không hai này. Tôi nuôi mộng một ngày không xa, sẽ thực hiện một chuyến hải hành để một lần được nhìn tận mắt loài chim dễ thương nhất địa cầu này. Và hôm nay, giấc mơ đã trở thành hiện thực.

Chúng tôi, nhóm 10 người bạn thân, thường hẹn gặp nhau với những chuyến đi du lịch khám phá dài ngày. Quỳnh-Thái là cặp vợ chồng trẻ nhất cũng vừa tròn 62 tuổi, nhanh nhẹn, tháo vác, ứng biến lẹ làng, xứng đáng với chức vụ trưởng đoàn. Thái là người lên kế hoạch từng chi tiết trong việc mua vé máy bay, đặt khách sạn, đi chơi ở đâu; Quỳnh, ngoài lanh lẹ trong việc tìm kiếm hướng dẫn viên địa phương, ăn uống đặc sản gì, còn là người có tài trả giá, sẵn sàng kéo cái giá từ trên trời rơi xuống đất mới thôi, đến thánh thần cũng phải chào thua, tiết kiệm cho cả đoàn rất nhiều tiền. Kế đến là vợ chồng tôi, Hòa-Tới, cặp vợ chồng Chi-Châu, cặp vợ chồng Ngôn-Bình, và cuối cùng là cặp vợ chồng Sinh-Lý. Xin quý bạn khoan cười vì cái tên đáng yêu, hấp dẫn, và cực kỳ dễ thương của cặp vợ chồng rất vui vẻ, hòa đồng, dễ mến này tương xứng với cái tên cũng cực kỳ lôi cuốn, hấp dẫn, và tràn trề yêu thương. Chúng tôi vẫn thường cười đùa với nhau, chuyến đi chơi này mà thiếu “Sinh-Lý” thì chuyến đi sẽ nhạt nhẽo, kém phần thú vị bội phần.

Chuyến hải hành 18 ngày đi khám phá miền xa xôi, cô đơn, hẻo lánh và lạnh lẽo nhất địa cầu, nơi nhiệt độ trung bình -58 F, mùa Đông xuống đến -85 F, gió lạnh thổi ào ào đến 120 MPH và phần quan trọng nhất là đổ bộ lên hoang đảo đi ngắm chim Cánh Cụt rất gần bên mình, có người may mắn có thể sờ và vuốt ve bộ lông óng mượt, mềm như tơ của chúng. Chuyến đi được tóm gọn theo thứ tự như sau:

  1. Hai ngày khám phá Bueonos Aires, thủ đô nước Cộng Hòa Argentina.
  2. Rời cảng Buenos Aires.
  3. Ba ngày lênh đênh trên sóng nước, trực chỉ Nam Cực, Antartica.
  4. Ghé bến Punta Arenas, Chile.
  5. Bến Ushualaia, bến cảng cuối cùng của Argentina và thế giới.
  6. Trực chỉ vùng băng đảo Nam Cực, Antartica. Du hành 4 ngày dọc theo các đảo băng sơn phủ đầy tuyết trắng, ngắm nhìn các chú chim Cánh Cụt, Penguins và các loại sinh vật hoang dã khác.
  7. Lênh đênh trên biển.
  8. Bến Stanley, đảo Falkland, thuộc lãnh thổ Anh quốc. Coi tận nơi hang và nơi sinh sống chim Cánh Cụt Magellanic Penguins.
  9. Hai ngày lênh đênh sóng nước.
  10. Bến Montevideo, Uruguay.
  11. Chuyến hải trình kết thúc, trở về Buenos Aires.

Câu chuyện ngày nay kể về một chuyện ngày xưa, một ngày của thuở hồng hoang loài người; hằng triệu năm trước, khi một mảnh đất trên địa cầu, sau cơn địa chấn, tách ra và trôi dạt về phương Nam, ngày càng xa thẵm và nó trôi đến phía cực Nam của trái đất, dừng lại một nơi chốn tận cùng, rồi một biên giới được dựng lên bởi bức tường Băng Tuyết vĩnh viễn. Trên mảnh đất xa xôi, ngàn năm cô đơn ấy, một loài chim Cánh Cụt ríu rít sống bên nhau, yêu thương che chở nhau cho đến chết vì nhau.

Chim Cánh Cụt là một loại chim quý hiếm được bảo tồn, bảo vệ rất đặc biệt và nghiêm ngặt. Chúng có cánh mà không biết bay. Chúng đi bộ bì bạch, cả thân hình nghiêng ngả theo từng bước chân, khi mệt mỏi, chúng sẽ nằm dài bằng cái bụng to tròn trắng muốt trên băng tuyết, trượt đi bằng đôi cánh cụt và đôi chân ngắn cũn cỡn của chúng. Nhờ bộ lông không thấm nước nên cở thể chúng không bị lạnh khi chạm với băng tuyết.

Trên trái địa cầu, có nhiều vùng đất rất khó đi đến, con người vẫn đặt chân đến; nhưng vùng đất khó sống nhất là vùng Nam Cực, nơi niệt độ trung bình -58 F, nơi những cơn gió lạnh cắt da thổi mạnh nhất đến 120 MPH, nên vùng đất này trở thành nơi đấu tranh sinh tồn khắc nghiệt nhất cho bất cứ động vật nào. Nơi đây lại là nơi các loại chim Cánh Cụt chọn làm quê hương, dù cho điều kiện sinh tồn cực kỳ khó khăn, chúng vẫn từ chối không bao giờ muốn lìa xa nơi chôn nhao cắt rốn mà tổ tiên chúng đã muôn đời gắn bó.

Mỗi năm, vào khoảng cùng thời gian, chúng rời xa vùng biển nước, nơi chúng săn cá, ăn uống, và chơi đùa, để cùng nhau đi kiếm một vùng đất yên ổn hơn, chúng đi kiếm bạn tình, chúng yêu nhau và ríu rít sống bên nhau trong những ngày thần tiên ấy.

Đến một ngày, khi mặt trời bắt đầu đi ngủ sớm, ngày ngắn và đêm dài hơn, những cơn gió rét buốt tháng Năm đang dần đến, báo hiệu mùa Đông tới gần; chúng lại cùng nhau đi kiếm một vùng đất xa hơn trong lục địa, chúng tìm kiếm phương hướng theo bản năng, cùng nhau lầm lũi bước đi không ngừng nghỉ trong đêm tăm tối. Đến nơi, chúng nghỉ ngơi và những mầm sống bắt đầu nảy nở trong cơ thể các con chim cái. Mỗi con chim cái đẻ được một trứng và trao trứng cho chim đực ấp ủ chờ ngày chào đời của những chú chim nhỏ tương lai.

Trên mênh mông tuyết trắng xóa một màu cô đơn lặng lẽ, chúng quần tụ lại với nhau thành một vòng tròn chặt nhẽ để sưởi ấm nhau mặc cho phong ba bão tuyết bủa vây cả 3 tháng ròng rã mà không hề có một chút thức ăn nào. Bên ngoài, gió lạnh vẫn thổi như những mũi dao lạnh cắt da, cơ thể tròn trịa càng áp chặt với nhau, những cặp mắt tròn xoe ánh lên sự dịu dàng, yêu thương, đầu cúi xuống, dụi mỏ vào nhau, truyền hơi ấm cho nhau và che chở lẫn nhau.

Các con chim đực vẫn kiên trì đứng vòng ngoài, lấy thân hình run rẩy của mình làm bức tường thành vững chãi che cho cả bầy. Các chú chim non ra đời nhờ chim cha tận tụy, trông nom, bảo vệ, sưởi ấm; đây cũng là lúc chim mẹ đang kiệt sức sau khi sinh nở, chúng phải trở lại con đường chúng đã đi qua, tìm về lại biển khơi để săn mồi, đem về mớm lại cho bầy con. Chim cha ở lại, tiếp tục sưởi ấm cho bầy con thơ.

Sau đoạn đường dài gần trăm dặm, bầy chim mẹ trở về, cất cao tiếng kêu gọi bầy, các con chim cha vui mừng đáp lại; chúng nhận ra nhau qua những tần số đặc biệt. Cuộc trùng phùng vui mừng, ngắn ngủi, chim cha âu yếm trao lại đứa con độc nhất cho chim mẹ để mớm mồi cho chim con. Chim cha cũng đang kiệt sức vì không có chút thức ăn gì trong bụng đã hơn 3 tháng, thân thể chúng gầy đi phân nửa, chúng bắt đầu chuyến trở về đầy gian nan, nguy hiểm, nơi chúng đã bỏ đi; chúng lao xuống biển tìm thức ăn để sống còn và mang về cho bầy con. Có những con kiệt sức, nằm lại vĩnh viễn dọc đường, mãi mãi không bao giờ thức dậy.

Khi no nê, bầy chim cha rộn ràng lo trở về trong đất liền tìm lại gia đình đã bỏ lại sau lưng. Gia đình tiếp tục vui vầy chung sống bên nhau cho đến khi những tia nắng đầu tiên của tháng 11 sưởi ấm nơi chốn chúng đã được sinh ra. Chúng chờ đợi để mùa đông dần biến mất, cho gió đông ngừng thổi, và cho băng giá bớt khắc nghiệt.  Bầy chim cha, chim mẹ vui mừng chia sẻ những miếng thức ăn cuối cùng trong cổ họng cho bầy con thân yêu của mình và tập cho chúng quen dần với cuộc sống mới. Khi các chú chim con cứng cáp, cả bầy lại bắt đầu chuyến di cư hằng năm tìm về nơi nguồn thức ăn phong phú, sẵn có mà thiên nhiên ban tặng cho mình. Cứ như thế, cái chu kỳ đời sống của loài chim Cánh Cụt cứ lập đi lập lại không ngừng từ hằng triệu năm trước cho đến bây giờ vẫn không bao giờ thay đổi.

Đó cũng là lúc chúng tôi đáp chuyến tàu đến vùng đất huyền thoại Nam Cực này. Đang mùa đông ở Bắc Mỹ, chúng tôi bay đến Argentina đang là mùa hè, khí hậu ấm áp, dễ chịu nên ai nấy cứ phong phanh quần sọoc, áo ngắn tay. Càng đi về phía Nam, chúng tôi lại mặc áo dày hơn một lớp.

Con tàu vượt qua eo biển Magellan nơi Thái Bình Dương và Đại Tây Dương giao nhau. Càng đi về phía Nam, bình minh lên sớm và hoàng hôn càng xuống trễ hơn: buổi sáng mới 04:00 giờ trời đã sáng tỏ và mặt trời chỉ đi ngủ lúc 22:45 tối. Ngày dài hơn, cho chúng tôi thêm thời gian chiêm ngưỡng kỳ công của tạo hóa. Những cảnh sắc độc nhất chỉ có ở vùng biển Nam Cực. Thời tiết bắt đầu mang hơi hám lạnh lẽo vùng Nam Cực. Trời thấp dần với những áng mây xám giăng ngang tầm nhìn.

Là một loại động vật không được trang bị bất cứ vũ khí nào để chống lại các loài vật mạnh hơn, chúng chọn sống ở một nơi cô quạnh, lạnh giá nhất trên địa cầu, nơi ít sinh vật nào có thể chịu đựng được cái lạnh âm độ và những cơn gió gào rít, rét cắt da. Các loài săn mồi khác không thể chịu được cái lạnh khắc nghiệt nhất nơi đây nên chim Cánh Cụt sẽ được an toàn hơn để xây dựng tổ uyên ương và một cộng đồng riêng của chúng.

Ngược lại với cái vẻ bề ngoài yếu đuối hiền lành, loài chim Cánh Cụt có một ý chí và bản năng thích nghi sống mãnh liệt trong thiên nhiên khắc nghiệt nhất hành tinh này. Dù vụng về trên băng tuyết, chúng lại là loại chim lặn dưới nước cừ khôi khi phải đối diện với cá Voi hay Hải Cẩu đang săn đuổi chúng. Chúng có thể lặn sâu đến 170 feet và nín thở đến 15 phút.

Cứ như vậy, chúng tôi lần lượt ghé lên vài băng đảo với các điều kiện sinh sống, khí hậu, địa hình và các loại chim Cánh Cụt khác nhau; chúng tôi càng hiểu thêm về loài chim đặc biệt, có một không hai này và càng yêu chúng hơn.

Chiếc du thuyền chạy rất chậm dọc theo những triền núi tuyết phủ quanh năm hoặc những gềnh đá hiểm trở không thể đổ bộ lên được, cho chúng tôi có dịp quan sát từ xa những “bộ tộc” chim Cánh Cụt khác nhau. Chúng thường đứng im sát vào nhau, vài đôi bạn tình cọ mỏ và âu yếm nhau trong lúc một bầy “thanh niên” ồn ào đùa giỡn, hết rượt nhau trên bờ, chúng lại lao xuống nước bơi lội, kêu réo nhau chíu chít.

Lúc ghé bến Punta Arenas, Chile và bến Ushuaia, Argentina. Trên tàu rao bán những chuyến đi dã ngoại ngắm chim Cánh Cụt, vé $425 một người, vẫn có người chấp nhận cái giá cao ngất ngưỡng đó để thỏa mãn niềm ước ao được đến gần các chú “lùn” có cánh mà không biết bay này. Ai nấy háo hức chen nhau xuống tàu.

Vốn là con cháu của bác “Hiền-Tạ” (Hà -Tiện), chúng tôi đợi khi đặt chân lên đất liền, mới lân la đi kiếm những hướng dẫn viên địa phương để kỳ kèo trả giá, mong kiếm được giá hời. Nhưng kỳ này, trời cao lại phụ kẻ “lòng gian” như chúng tôi. Đón Uber đến bến phà mất 4,900 Pesos, khoảng gần $5, không còn vé nào sót lại cho chúng tôi, họ chỉ chấp nhận vé đặt trước trên mạng. Nếu mua được vé chính thức chỉ 150,000 Pesos, khoảng $150/một người. Tôi biết chắc tàu cruise đã đồng lòng, “ăn rơ” cùng chính quyền địa phương, không cho bán vé ngày con tàu cặp bến, để họ có thể bán vé giá cao ngất ngưỡng chuyến thực địa cho khách trên tàu.

Thất bại toàn tập ở cả hai bến cảng, đám con Rồng cháu Tiên không được ngắm nhìn chim Cánh Cụt, lên núi cao không được mà đi xuống biển cũng không xong, đành phải đi vòng vòng nhìn quê hương của chúng vậy. An ủi một điều cho đám con bà Âu Cơ, lại thêm “tư duy” sáng tạo của những năm buôn bán chợ trời, Quỳnh trả giá với đám con buôn ngay bến tàu, chúng tôi chỉ phải trả $35/một người, thay cho giá ban đầu bị hét từ $120/một người. Một nhóm 8 người khách nói tiếng Tây Ban Nha, phải trả $50/một người, họ hỏi chúng tôi phải trả bao nhiêu; không muốn làm đau lòng họ, tôi trả lời rằng các ông bà đã trả một giá khá là cao hơn chúng tôi.

Ngồi trên xe buýt đi coi các thắng cảnh và công viên quốc gia của hai nước này, chúng tôi không mấy thích thú với những loại động vật hoang dã nơi đây như chim Đà Điểu, các loại Diều Hâu, chim Ưng, hay Đại Bàng. Chúng không có những bộ lông màu sắc đẹp đẽ như loài chim ở Bắc Mỹ, quê huơng chúng ta. Thời tiết nơi đây nghiệt ngã, mùa hè ngắn mà mùa đông thì dài, lương thực hiếm hoi, các loài chim tìm cách sống sót đã là may mắn, nói chi đến làm đẹp.

Còn tàu tiếp tục lướt đi êm ả trong cảnh trời bao la, nắng đẹp, mây cao, trời xanh biếc, dưới nước, vài con Cá Voi khổng lồ bơi dọc theo tàu, thỉnh thoảng lộn nhào, vươn cái đuôi tuyệt đẹp của chúng lên cao trên mặt nước, rồi lại biến mất vào nước biển xanh màu ngọc bích. Tiếc rằng chúng bơi hơi xa nên ai có ống dòm mới có thể coi rõ được. Chúng tôi chưa thấy một con cá Heo (dolphins) nào, hình như chúng không có hoặc không thích hợp với nhiệt độ nơi đây, tuy mùa Hè nhưng nhiệt độ khoảng 32-35 F.

Chiều ngày thứ 7 của chuyến hải hành, sau khi rời bến Ushuaia, con tàu trên đường đến bán đảo Nam Cực, Antartica Peninsula, mọi người trên tàu đều mong muốn con tàu xả hết tốc lực, chạy cho nhanh đến nơi cho mau. Đây là điểm đến quan trọng nhất của chuyến đi mà ai nấy đang mong đợi. Con tàu tăng tốc độ lên 55 hải lý một giờ. Biển bắt đầu nổi sóng, gió mạnh, con tàu lắc lư, chao đảo, nhồi lên nhồi xuống, một số hành khách say sóng, phải vịn tay nắm trên tường khi di chuyển. Nhóm chúng tôi có anh Bình và bà xã tôi bị say, đi đứng không vững, chỉ chực “cho cá ăn chè”. Số còn lại, tuy không say nhưng đi đứng nghiêng ngả, y như đang khiêu vũ điệu Tango Argentina. Đã vậy, trên tàu, họ còn bày ra trò chơi Spin To Win, như chơi quay xổ số; họ mời chơi, tôi nói với họ “I am spinning myself right now”. Cả đám toét miệng lên cười tới mang tai.

Biển tiếp tục động mạnh, sóng dâng cao, cả đêm thân tàu vặn mình, con tàu chao đảo không ngừng; trong phòng ngủ, tôi có thể nghe tiếng căn phòng vặn mình nghe kẽo kẹt. Nằm ngủ mà tưởng chừng đang nằm võng đong đưa trong những buổi chiều vàng nhạt nắng ở vườn quê. Người không say thì thấy hay hay, còn người say thì thấy như mình đang bay.

Qua một đêm chuyển mình, thay hình đổi dạng, sáng hôm sau, biển mềm mại, lặng im ngoan ngoãn như những ngày trước đây. Chúng tôi chính thức đi vào vùng cực Nam của trái đất. Trời-Biển gần nhau hơn, mây xám giăng ngang lưng trời. Điểm nối giữa trời biển là những dãy núi phủ đầy tuyết trắng nằm gần kề nhau nhưng không liền nhau. Càng tiến về phía Nam, chúng tôi càng đến gần bán đảo Nam Cực.

canh cut 2
Magellanic penguins

                                                                   

canh cut 3
Ảnh: Tác giả chụp


Sau mấy ngày lênh đênh, con tàu giảm tốc độ, chạy len lỏi rất chậm giữa các tảng băng sơn đang lững lờ trôi qua hai bên hông tàu. Chúng tôi có thể cảm nhận được cái lạnh từ những núi băng và cả những tảng băng vỡ ra từ nhiều con sông băng. Thỉnh thoảng vài chú chim Cánh Cụt có máu phiêu lưu, đang bơi lội, bám vào các tảng băng trôi, để giấc mộng giang hồ của chúng được dịp dọc ngang đây đó.

Tàu cặp bến cho chúng tôi lặn lội đi vào coi các tổ chim Cánh Cụt, đến thật gần quan sát cuộc sống của chúng. Chúng đi lại bằng những bước chân lạch bạch rất đáng yêu, với thân hình tròn trịa nghiêng qua lắc lại, đôi cánh cụt vẫy nhẹ giữ thăng bằng, và đôi mắt tròn xoe, đen láy, hiền lành pha chút vẻ tinh nghịch, nhìn chúng tôi với vẻ ngạc nhiên và tò mò. Loài chim Cánh Cụt mang tên Emperor Penguins là loại đẹp và tiêu biểu nhất của vùng này vì chúng cao đến 3 ft. , đầu và lưng đen tuyền, hai bên má và cổ màu cam, ngực trắng tinh hài hòa một sắc màu sắc rực rỡ.

Bây giờ, đang giữa mùa Hè Nam Cực, băng đã và đang tan dần, một vài tảng băng khổng lồ trôi nổi giữa những hàng ngàn tảng băng to nhỏ, bập bềnh, nhẹ trôi. Những con sóng nhỏ chạm vào chân các tảng băng trôi tung bọt trắng xóa, rồi chúng nhẹ nhàng, mơn man, vỗ về những giấc mơ tang bồng của các tảng băng lạc loài đang vỡ dần, rụng rơi, tách rời ra khỏi vòng tay yêu thương của cha mẹ chúng. Cứ như thế, chúng tỏa ra khắp nơi, làm một chuyến viễn du không bờ bến, không nơi đến, để rồi tan chảy dần vào đại dương mênh mông.

canh cut 4
Ảnh tác giả chụp.



Những khối sông băng màu xanh ngọc bích pha lẫn màu trắng của tinh khôi đã tồn tại nơi này hằng triệu năm. Biết bao nhiêu lớp tuyết rơi nằm đè lên nhau, áp suất bầu khí quyển nén chúng dính chặt với nhau tạo nên những bức tranh hùng vĩ, thiên nhiên. Nơi này, chúng tôi thấy được hàng ngàn, hàng vạn chim Cánh Cụt ở một khoảng cách rất gần và ngửi được mùi phân tanh nồng của chúng. Hàng ngàn con đứng tụm lại với nhau, vui đùa, cãi lộn, dường như chúng đang bàn tán về “con vật” khổng lồ, trên đó rất nhiều “sinh vật” đang khoác lên mình đủ mọi thứ quần áo màu sắc rực rỡ với ống dòm, máy hình, và Iphone, cũng đang quay phim và bàn tán và về chúng.

Một vài con chim Cánh Cụt tách đoàn và di chuyển dần về phía bờ biển, những chú chim này có vẻ trẻ trung, nhanh nhẹn, gan dạ và năng động, chúng muốn tiến gần hơn để coi cho rõ đám sinh vật đang đứng trên con vật khổng lồ này là ai. Một nhóm nhỏ hơn chợt vượt lên phía trước, một con không còn kiên nhẫn, bỗng lao cả thân hình ra phía trước, rơi phịch xuống trên mặt băng và trườn thật nhanh bằng đôi cánh cụt, lao nhanh xuống biển, các con khác cũng bắt chước, cả đám theo nhau nhảy ùm xuống nước. Chúng bơi xa xa và thỉnh thoảng trồi đầu lên ngó dáo dác có vẻ đề phòng. Trên bờ, tuy đứng im, nhưng cha mẹ chúng vẫn thỉnh thoảng dõi mắt trông theo mấy đứa cứng đầu không nghe lời, thỉnh thoảng lại phát lên tiếng kêu to như nhắn nhủ hãy coi chừng bọn “con người” chỉ biết đi bằng hai chân xa xa đằng kia.

Đến đảo Falkland, địa hình thay đổi khác hẳn với các vùng đảo khác, nơi đây, chúng tôi phải khổ cực bước trong lớp cát lún sâu, len lỏi giữa những bụi cỏ Tussac xơ xác, thưa thớt vì gió lạnh và cát bay. Ai nấy phải mang khẩu trang và kính râm mà vẫn bị cát thổi vào mặt buốt rát. Chúng tôi càng thương các chú chim Magellanic Penguins hơn, chúng đứng im lặng cả ngày, thỉnh thoảng lại cọ mỏ vào nhau, phát ra những tiếng ríu rít nho nhỏ, chúng cứ đứng không nhúc nhích như vậy, mặc cho gió cát thổi rào rạt, lạnh buốt mà khuôn mặt chúng vẫn ánh lên nét hiền hòa nhẫn nại, pha chút ngơ ngác và đơn sơ.

Một buổi, thức dậy sớm, con tàu vẫn lặng lờ trôi thật nhẹ trong sương mù, quay mũi về hướng đất liền, khi mọi người còn say ngủ, tôi lên mũi tàu, tầng 18, nơi cao nhất của con tàu, đứng lặng nhìn vào khoảng trống mênh mông bao la biển rộng, tôi chợt nghe được âm thanh của sự im lặng quanh tôi và nghe rất rõ nhịp đập của trái tim mình. Trong sâu thẵm của không gian tuyệt mỹ, chỉ nơi này, con người mới cảm nhận được sự ngưng đọng của thời gian. Cứ thế, tôi để tôi bập bềnh trôi đi trong khoảng không gian nửa thực nửa mơ đó.

Rồi trời dần sáng, một màu trắng mờ ảo của sương mù, lãng đãng như chốn thần tiên, cảnh vật như thực như mơ, như đang nắm ghì lại vòng quay của trái đất. Tôi vẫn đứng im lặng nhìn cuộc giao hoan êm đềm của đất trời và biển khơi; mây trời mềm mại ôm ấp, len lỏi vào các lối ngoằn ngoèo khe núi, vuốt ve từng đường cong nét lượn trên thân thể mạnh mẽ đầy sức sống của các băng sơn. Mặt trời bắt đầu e ấp những tia sáng yếu ớt phía sau núi, con sông băng vĩnh viễn trước mặt chia thành hai nhánh song song đổ xuống triền đồi, chạy đến sát bờ biển. Tôi lặng lẽ thu những hình ảnh đó vào sâu trong tâm khảm mình.

Qua những gì mắt thấy, tai nghe về loài chim Cánh Cụt, chuyến đi miền cực Nam của trái đất để lại trong tôi sự ngưỡng mộ, cảm phục trước tình yêu thương gia đình vô bờ bến và sự kiên cường bền bỉ trước thiên nhiên khắc nghiệt của chim Cánh Cụt, tôi lại càng trân trọng hơn tình yêu thương trong cuộc sống của chính mình, cũng như cảm nhận được sự gắn kết giữa con người và thiên nhiên. Nhưng các bạn ơi, khi nhóm chúng tôi rời chiếc du thuyền, đặt chân trở lại trên đất liền, ai nấy đều bước đi với dáng dấp cũng lạch bạch, nghiêng qua nghiêng lại như các chú chim Cánh Cụt vì ăn, ngủ nhiều, và lên cân quá nhanh.

NGUYỄN VĂN TỚI. 02/2025

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.