Hôm nay,  

Tập Bản Thảo

02/05/202500:00:00(Xem: 1924)

Minh-họa-Đinh-Cường
Minh họa Đinh Cường

 

Chiếc ghế đá hầu như rất quen thuộc, dù nó cũng như mọi chiếc ghế khác trong công viên. Tháng Sáu. Bầy ve kêu inh ỏi. Chúng vô tư thật!
Đoan ngồi xuống. Mấy buổi chiều nay, tan học, Đoan ghé khu vườn rộng lớn này, như một người trở về, cảm giác thật khó tả. Chợt nghe trong đầu vẳng lại lời của một bài thơ:

Có ai qua vườn xưa
Bây giờ đã đóng cửa?
Bao nhớ nhung cho vừa
Khi cơn đau òa vỡ
Vườn xưa xanh những lá
Xanh kỷ niệm tuyệt vời
Cửa đóng rồi, xa quá!
Làm sao nhặt lá rơi?
 (*)

Đoan bùi ngùi. Bây giờ cửa vườn đã mở. Những hàng cây thật cao đứng yên như thuở nào. Nhưng cảnh đời không còn như xưa.

Một người trông quen quen đang đi về phía Đoan. Đoan nhận ra là Chân, người làm cùng sở với chị Thúy, có đến nhà một lần. Đoan gật đầu chào, tưởng anh ấy sẽ đi tiếp. Nhưng anh dừng lại, nói:

“Xin lỗi Đoan, tôi có thể ngồi nói chuyện với Đoan không?”

Đoan hơi ngạc nhiên, nhưng rồi gật đầu, vì phép lịch sự:

“Dạ, anh cứ tự nhiên.”

Đoan xích qua một bên cho rộng chỗ. Chân ngồi xuống, và mở đầu bằng câu hỏi thăm:

“Đoan vẫn đi học?”

“Dạ.”

“Trường lớp có gì lạ không Đoan?”

“Dạ, cũng có nhiều thay đổi, nhưng sau thì cũng quen rồi ạ.”

“Đoan vẫn viết văn?”

Câu hỏi rất bình thường nhưng khiến Đoan giật mình. Đoan im lặng vài giây, rồi đáp:

“Dạ không.”

Chân gật đầu:

“Tôi cũng đoán được.”

“Cám ơn anh.”

Chân hơi hạ thấp giọng:

“Thật ra, tôi là người rất mến mộ các tác phẩm của Đoan.”

“Vậy sao? Đoan chỉ là người viết cho tuổi học trò, không có gì to tát đâu anh.”

“Với tôi thì có. Tôi thật lòng mà nói như vậy. Và tôi hiểu, khi biết Đoan ngừng viết. Đoan không phải là người chỉ viết cho chính mình đọc. Đoan viết bài thì phải đăng bài, phải xuất bản. Tâm tư của Đoan là tâm tư của người đọc.”

“Cám ơn anh đã hiểu.”

“Cho nên… tôi thấy tiếc quá!”

Chân thở dài. Bỗng dưng Đoan lại nói như an ủi Chân:

“Không sao đâu anh! Đã có nhiều thứ mất mát to lớn quá, làm mình không nhớ tới cái mất mát của riêng mình.”

Hai người im lặng một lát. Tiếng ve bỗng rộn lên như một ban nhạc bắt đầu hòa tấu, như thể muốn làm chất xúc tác cho một đề tài mới. Khi Đoan định từ giã thì Chân lên tiếng:

“Đoan à, không phải tình cờ mà tôi gặp Đoan hôm nay. Thật ra là…”

“Sao ạ?”

“Thật ra tôi có hỏi thăm và được chị Thúy cho biết Đoan sẽ ra đây, nên tôi cố tình tìm gặp Đoan.”

Như đã bắt đầu được dễ dàng rồi, Chân nói, giọng đều đều:

“Đoan không biết nhiều về tôi, nhưng tôi thì tìm hiểu Đoan qua chị Thúy, và có thể nói là tôi mến Đoan qua những tác phẩm của Đoan. Tôi thành thật muốn làm bạn với Đoan…”

“Dạ, anh là bạn của chị Thúy thì cũng là bạn của Đoan rồi!”

“Không, tôi muốn… hơn một người bạn bình thường.”

“Đoan chưa hiểu ý của anh…”

“Chân yêu Đoan.”

Đoan chớp mắt, bỗng như nghe thấy một điều xa lạ. Sao mình lại không có cảm xúc nào hết? Câu nói bất ngờ của Chân như một câu hát không có nhạc đệm. Đoan ngồi im như bức tượng…

Gió xào xạc lá cây trên cao, như kéo Đoan về thực tại. Đoan tìm lời để đáp lại vẻ chờ đợi của Chân:

“Dạ… cho Đoan xin lỗi. Có lẽ lúc này Đoan chưa thể tiếp nhận được điều gì. Xin anh đừng buồn.  Anh có thể nghĩ là Đoan lạnh lùng cũng được. Nhưng Đoan không thể… Nếu anh yêu Đoan qua văn của Đoan thì e rằng chưa thực tế lắm, và Đoan cũng khó đáp ứng được với tình cảm của anh dành cho Đoan. Xin anh cho Đoan giữ ở mức bạn bè bình thường được không?”

Nét mặt của Chân lộ vẻ thất vọng. Đoan đứng lên, chào từ giã. Đoan không dám nhìn lại Chân. Đoan thấy mình hơi tàn nhẫn. Đoan loay hoay tự hỏi, tại sao lại có một sự tỏ tình giữa lúc này? Còn nữa, đơn giản là mình phải thấy vui khi có người nói mến mộ mình, nhưng tại sao lại không vui? Đoan tự trả lời:

“Vì mình đã buông bút.”

Nắng sắp tắt. Khu vườn tối dần. Những hàng cây vươn những cánh tay dài lên bầu trời. Tạm biệt vườn xưa đầy kỷ niệm của tôi.
 
2

Đoan kể cho chị Thúy nghe, và thú nhận rằng mình không có cách cư xử nào khéo hơn để Chân không buồn. Phải chăng Chân đã xuất hiện không đúng lúc? Đoan lắc đầu, tự nhủ mình không có lỗi. Trong những ngày tháng hỗn mang này, lòng người còn choáng váng trước những thay đổi và mất mát lớn lao, cảm xúc riêng tư như không có chỗ. Nhưng cũng chính sự xuất hiện của Chân khiến Đoan bừng lên sự mong mỏi được nhìn thấy Thắng. Thắng không ở trong đoàn người tản cư. Thắng không có mặt trong số những thương binh bị đuổi ra khỏi quân y viện. Thắng không tìm về gặp Đoan. Không có cách nào để liên lạc với Thắng nữa. Thắng như đã biến mất.

Đoan chơi vơi trong cảnh ngộ đổi đời. Hàng ngày vẫn đến trường nhưng không có lớp chuyên môn, chỉ có họp tổ thảo luận chính trị. Bạn bè trong lớp vắng mặt gần một nửa. Những anh chị “tổ trưởng” hùng hồn với những bài thuyết cách mạng. Rồi thì “phê và tự phê” trong tổ như cơm bữa. Đoan muốn bớt căng thẳng chỉ có cách ra công viên mỗi chiều sau giờ tan học, ngồi ở ghế đá, tìm lại chút cảm giác êm đềm. Nơi này, trước đây, cũng là chỗ Đoan cùng Thắng tìm một chút tĩnh lặng hiếm hoi trong những ngày thành phố bắt đầu chộn rộn với những dòng người di tản từ các nơi về. Cánh tay bị thương của Thắng vẫn còn băng bột, treo ngang trước ngực. Vì là thương binh nhẹ nên Thắng xin bệnh viện cho ra ngoài mỗi thứ Bảy. Hai anh em, lúc thì chuyện trò không ngơi, lúc lại cùng yên lặng, lắng nghe tiếng lá xào xạc cùng gió. Hai anh em, vâng, chỉ như hai anh em.

Lần cuối Đoan gặp Thắng là ở quân y viện. Cánh tay trái băng bột vẫn treo ngang trước ngực. Thắng đã bị thương biết bao lần. Sau khi vết thương lành, Thắng lại ra mặt trận. Thắng nói không biết mình hên hay xui. Thắng thường nhắc đến những người bạn của mình, có người phải bỏ hẳn một phần thân thể; có người đã chôn sâu trong đất.

Cũng là lần cuối trong bệnh viện, Thắng và Đoan chuyện trò rất lâu nơi hành lang phòng bệnh mát rượiKhi trở vào, Thắng lấy từ dưới chiếc gối một quyển sổ, bìa hơi dày, giống như những quyển “Lưu bút” của học trò trung học, khoe với Đoan:

“Đây là tập bản thảo những bài anh viết sau mỗi chuyến hành quân.”

Đoan vui mừng:

“Cho Đoan xem được không?”

“Chưa. Bao giờ viết đầy quyển sổ này, anh sẽ cho Đoan xem. Không chừng sẽ nhờ Đoan mang đến nhà xuất bản.”

“Ôi, hay quá! Đoan sẽ tình nguyện đem tới nhà xuất bản. Đoan có được làm người đọc đầu tiên không?”

“Nhất định rồi! Còn ai vào đây?”

Thắng lướt bàn tay lật nhanh những trang giấy, rồi lại cất cuốn sổ xuống dưới chiếc gối. Đoan kịp nhìn thấy, ở trang đầu tiên, tấm ảnh của cô bé mặc áo dài màu vàng, ngồi trên chiếc xe Cady cũng màu vàng.  
 
3

Hai chị em đi họp ở trụ sở phường để nghe chính trị, dành cho thanh niên trong các khu xóm. Mấy chục người đứng trong một khoảng sân rộng, từng là nơi tập trung các sách báo của thời trước để đốt. Hai chị em nhìn nhau, cùng một ý tưởng, nghĩ về những quyển sách mà mình đã cố ý giữ lại. Trong đó, có những quyển sách đã xuất bản của Đoan.

“Cán bộ” đứng trước micro, nói thao thao bất tuyệt về một đề tài không còn mới: giáo dục thanh niên theo chủ nghĩa xã hội. Tiếng loa rè rè nghe khó chịu. Nhìn quanh, thấy không mấy ai lắng nghe. Việc phải làm thì phải làm, cũng y như vào công sở hay trường học đều phải dự những buổi nghe như thế. Những buổi nghe mà khi ra về ai cũng còn duy nhất một điều để nhớ: “Hầu hết mọi người đều có tội.” Quân nhân có tội. Công chức có tội. Thầy giáo, bác sĩ, người bán hàng… cũng có thể có tội. Nói chung, ai sinh ra và, hoặc, sống ở Miền Nam, đều có thể có tội. Nhìn quanh, không biết có mấy ai đồng ý, mấy ai không đồng ý. Đoan chợt thương xót họ, thương xót mình. Con người không thể sống ẩn tàng dưới lòng đất như loài ve mấy năm hay mười mấy năm. Con người vẫn phải sống tiếp, dưới ánh mặt trời, phải đối diện với những cảnh ngộ hàng ngày.

Chân gửi đến Đoan một bức thư theo đường bưu điện. Bên trong, là một tờ giấy “pelure” màu xanh, gấp làm đôi, không có một chữ nào. Đoan cho chị Thúy xem. Chị Thúy thở dài:

“Anh chàng này thành thật lắm đó! Rất tiếc!”

Tờ giấy màu xanh không có chữ viết trên đó, cũng là nói lên nhiều điều. Đoan cảm thấy ái ngại. Nhưng biết làm sao hơn? Thôi thì cứ để thời gian trả lời cho Chân vậy. Cũng như mọi người đang sống, chờ thời gian trả lời câu “Biết ra sao?”

Thế rồi, lại cũng nhờ Chân, nhờ bức thư của Chân, khi Đoan ngồi thừ nhìn phong bì, bỗng liên tưởng đến một địa chỉ. Đúng ra, chỉ là một cái tên đường. Nhiều lần, trong khi trò chuyện, Thắng đã tình cờ nhắc đến tên đường nhà mình, nhưng không nói đến số nhà. Đoan đứng bật dậy. Mình chưa bao giờ biết đến con đường này. Nhưng mình sẽ đi tới đó.
 
4

Đường Mai Hắc Đế, quận Tám. Đoan theo bản đồ, tìm được rồi! Đạp xe đạp, chạy thong thả, chắc sẽ đến nơi. Dọc theo Bến Bình Đông, nơi tấp nập những người phu khuân vác mang hàng từ dưới thuyền lên các kho trên bờ. Họ đi trên những tấm ván dùng làm cầu, nhún nhảy theo bước chân. Càng đi, cảnh vật càng giống ở thôn quê. Đoan đi qua mấy chiếc cầu gỗ cao ngất, phải dắt xe đi chứ không đạp lên nổi. Thắng đã có một nơi ẩn dật sau những ngày hành quân.

Đường Mai Hắc Đế không dài. Mình hỏi từng nhà, chắc sẽ tìm ra nhà của Thắng.

Nhưng không phải mất công nhiều. Đoan nhìn thấy ở trước một ngôi nhà, một hình ảnh đập vào mắt, khiến Đoan vụt nhớ lại trong một giây. Một chiếc xe lăn! Một người thanh niên ngồi trên chiếc xe lăn! Thắng có lần nói về cô em gái của Thắng lấy chồng thương binh. Đoan nghe tim mình đập nhanh. Chẳng lẽ là đây?

Đúng là nhà của Thắng. Thắng ở cùng cha mẹ và các em của Thắng trong nếp nhà này. Chỉ cần nói mình là bạn của Thắng, Đoan đã nhận được sự vồn vã ân cần của mọi người.

Thắng không có trong nhà. Nhưng Lan, em gái của Thắng, có nét mặt giống hệt anh mình, tiếp chuyện Đoan. Đoan thỉnh thoảng lén nhìn người chồng của Lan, rồi nhìn Lan, với lòng khâm phục. Mới gặp lần đầu nhưng Lan đã tỏ vẻ thân thiết với Đoan ngay. Lan mời Đoan vào phòng, nói:

“Em muốn gửi chị cái này.”

“Gì vậy Lan?”

“Lẽ ra là em giữ cho anh Thắng. Lần về nhà gần đây nhất, tuy chưa được xuất viện vì vết thương chưa lành, nhưng anh Thắng nói anh muốn để những thứ quý báu ở nhà, vì tình hình xem ra không mấy yên ổn. Anh cũng vào lại bệnh viện để được khám vết thương hàng ngày. Rồi thì sau ngày ba mươi, anh không về nữa. Bây giờ thì không còn tin tức gì. Bạn bè của anh cũng chịu thua. Gia đình chỉ còn biết chờ đợi, mong anh trở về hoặc nhắn tin. Cái mà em muốn giao cho chị, là quyển sổ này, tập bản thảo của anh Thắng.”

Đoan giật mình. Tập bản thảo! Quyển sổ mà Thắng khoe với Đoan lúc ở trong bệnh viện!

“Sao Lan nghĩ là giao lại cho chị? Anh Thắng có dặn không?”

“Anh Thắng không dặn. Anh chỉ nói rằng anh hứa cho Đoan là người đọc đầu tiên. Bây giờ em đã gặp chị rồi, em sẽ giao lại cho chị. Anh Thắng về chắc cũng không rầy em đâu!”

“Cám ơn Lan. Chị sẽ giữ gìn thật kỹ cho anh Thắng.”

Nắng sắp tắt. Đoan phải từ giã gia đình đáng mến này. Lưu luyến nhất là vợ chồng của Lan. Người vợ trẻ đẩy xe lăn cho chồng, tiễn Đoan một đoạn đường. Con đường mới làm quen buổi sáng, trở thành con đường thân yêu vào buổi chiều. Những chiếc cầu gỗ cao nghệu chuyển mình nghe răng rắc. Bến Bình Đông, trời sắp tối, không còn những người vác gạo từ dưới thuyền lên bờ. Đoan trở về thành phố náo nhiệt.

 5

Tập bản thảo! Thắng thường viết trong những lúc xa nhà. Những người lính mang cuộc sống của mình vào văn, thơ, nhạc. Nhưng có mấy ai được biết đến? Có mấy ai được người ta biết đến tác phẩm của mình như Phạm Lê Phan, như Phạm Văn Bình? Đoan đã từng đọc, từng ngâm, từng hát thuộc lòng tác phẩm của họ. Nhưng chưa bao giờ Đoan được đọc tác phẩm của Thắng. Những người lính thực thụ từng viết về những gì họ sống. Chiến tranh đã nhuốm đầy tác phẩm của họ. Người ta nói, đi trận hoài, làm gì có thì giờ để viết văn, làm thơ? Vậy mà họ đã viết. Họ viết rất nhiều. Có người, khi nằm xuống, dưới đáy ba-lô còn nguyên tập bản thảo chưa hề có ai đọc. Đoan đã từng có những tác phẩm được xuất bản, để rồi bị cấm, bị đốt, hoặc được lén lút giữ lại trong các ngăn tủ gia đình, như báu vật. Viết văn, làm thơ, đã như là định mệnh của một số người. Có người được độc giả đón nhận, cảm mến, yêu! Có người mãi mãi không ra mắt được tác phẩm của mình.

Ngồi yên lặng, Đoan mở giỏ xách, lấy ra quyển sổ của Thắng. Trông như những quyển “Lưu bút” của học sinh trung học. Rưng rưng cảm động, Đoan biết nét chữ này quen, những chuyện Thắng viết cũng sẽ rất quen, nhất là những bức thư Thắng viết từ Khánh Dương trong những ngày rút quân, gửi về cho Đoan. Cảm động hơn nữa, mình được là độc giả đầu tiên.

Đoan mở trang đầu. Dòng chữ Thắng viết hoa, to, đậm, như thể là tựa đề cho tác phẩm của mình: “Cám Ơn Người Yêu Dấu.”

Bên dưới dòng chữ ấy là tấm ảnh của Đoan cho Thắng vào mùa hè năm 1972, mặc áo dài màu vàng, ngồi trên chiếc xe Cady cũng màu vàng.
 
Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh
(Trích Chuỗi truyện ngắn “Những Ngày Nắng Vỡ”)
 (*): Bài thơ Vườn Xưa- Cam Li (1975)
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.