Hôm nay,  

Ngày Không Còn Mẹ

09/05/202500:00:00(Xem: 1693)
 
 ngay khong con me
 
 
 
                                     …Con biết con mất mẹ
                                            Là mất cả bầu trời…
                                                  ( TS Nhất Hạnh )
      Dù mình bao nhiêu tuổi , ngày không còn mẹ vẫn là ngày đau khổ nhất.
                                                             
*
 
Rõ ràng thằng bé đã thức. Nhưng khi An bước đến bên giường, mắt cu cậu nhắm tịt lại vờ như đang ngủ. An cù vào nách con :

— Giả bộ này. Giả bộ này…

Bin uốn éo người, cười khanh khách. An xốc con dậy, hôn vào đôi má phúng phính:

— Con đánh răng rồi ti sữa cho ngoan nhé. Mẹ đi làm đây.

Bin choàng vòng tay nhỏ xíu quanh cổ mẹ, giọng ngọng nghịu:

— Mẹ ứ đii…

Bà đưa tay đỡ lấy cu Bin:

— Sang đây bà bế. Chiều mẹ lại về với Bin nào.

 Chỉ nũng nịu với mẹ chút thôi, chứ Bin rất ngoan. Chưa bao giờ em khóc nhè, vòi vĩnh như những đứa trẻ khác. Sự hiểu chuyện của con, nhiều khi làm An nghe buốt lòng.

Bin ngoan ngoãn qua với bà, mắt vẫn không rời mẹ:

— Bye mẹ.
— Cho mẹ thơm cái nữa nào.

An chồm người hôn con, rồi quay sang mẹ:

— Con chào mẹ nhé. 

Chợt nhớ ra, cô nói:

— Hôm nay là Sinh Nhật cu Bin. Mẹ nấu soup cua cho cháu nhé. Trên đường về, con sẽ ghé tiệm mua bánh.

Loáng thoáng nghe mẹ nói mua bánh, Bin vỗ tay, reo:

— Bánh, bánh cho Bin.

Bà mắng yêu:

— Cún của bà chỉ được mỗi cái nết ăn là giỏi!

An cười vẫy tay và bước ra xe.

Xe chạy một đoạn, nhìn qua kính chiếu hậu, An vẫn thấy hai bà cháu đứng trước cửa nhà nhìn theo.

Cả ngày An rất vui. Cô vừa làm vừa hát nho nhỏ. Chỉ nghĩ đến con thôi, là cô đã cảm thấy niềm an ủi dạt dào.

Thoắt đó mà đã hai năm rồi. Lúc ấy, cô tưởng mình đã không vượt qua được cú sốc đầu đời đó. Cô và người yêu còn quá trẻ và chưa sẵn sàng để đón nhận một sinh linh mới. Trong tình yêu, con gái bao giờ cũng chịu thiệt thòi. Người cô yêu vội giũ bỏ trách nhiệm, để mặc cô một mình với nỗi khủng hoảng tăng theo sự lớn dần từng ngày của bào thai. Khi bạn bè háo hức trao đổi nhau dự định chọn trường college nào để ghi danh, thì tương lai cô tưởng chừng khép lại. 

Đã có lần cô nghĩ đến cái chết… 

An lắc đầu xua đuổi những ký ức kinh hoàng. Nếu không có tình yêu thương và khoan dung của mẹ, chắc cô không thể nào vượt qua được. 

Chương trình Medicaid của chính phủ dành cho những sản phụ thiếu điều kiện, cũng đã giúp đỡ An trong những tháng ngày khó khăn vô cùng đó.

Sinh con xong, An bắt đầu xin việc làm. Không còn lựa chọn nào khác, thôi thì đành bùi ngùi xếp sách vở lại, để lo cho đứa trẻ. Cũng may, mẹ làm việc online nên có thể ở nhà trông nom Bin giúp cô.

Bây giờ, cu Bin và mẹ là cả cuộc sống của cô. Người ta vẫn nói, những đứa trẻ bất hạnh thường khôn ngoan hơn những đứa trẻ có cuộc sống bình ổn. Điều đó thật đúng với  Bin. Con ngoan, không bao giờ khóc nhè và rất nhạy cảm. Chỉ cần thấy An mệt, hay không vui, là con đã chập chững bước đến hôn An, miệng thầm thì:

— Yêu mẹ, yêu mẹ. 

Những lời đớt đát thốt ra từ đôi môi chúm chím xua tan tất cả buồn phiền, lo lắng trong An. 

Chiều nay, khi tan làm, An ghé Publix mua bánh cho con. Đứng tần ngần một lúc, An chọn được một chiếc bánh vừa ý. Chiếc bánh phủ đầy chocolate nâu, có chú bé đội mũ đỏ chạy trên thảm cỏ xanh điểm xuyết những bông hoa đủ màu trông thật vui mắt.

— Hôm nay là Sinh Nhật của con trai cháu. An nói với người bán hàng.

Bà bán hàng vui vẻ:

— Xin chúc mừng. Bé tên gì? Mấy tuổi vậy cô?

— Con tên Bin, hai tuổi.

Bà bán hàng hí hoáy viết hàng chữ Happy Birthday Bin lên chiếc bánh. An xuýt xoa khe:

— Đẹp quá. Bà thật khéo tay.

Bà cười và đưa cho An hộp bánh, kèm theo 2 cây nến xanh đỏ:

— Mong là em bé sẽ có một buổi Sinh Nhật thật vui.

— Vâng, chắc chắn rồi. Cảm ơn bà nhé.

An đi như bay ra xe. Cô cẩn thận đặt hộp bánh bên cạnh, rồi ngồi vào tay lái. 

Bầu trời trĩu mây đen và lất phất mưa. An bật cần gạt nước. Mùa này hay có những cơn mưa cuối ngày như thế.

Niềm vui long lanh trong mắt An. Cô nghĩ đến lúc cu Bin nhìn thấy mẹ bước xuống xe với hộp bánh trên tay. Con hẳn sẽ vui lắm, sẽ nhoài người ra đòi mẹ. Tiếng reo của con ắt rộn ràng như tiếng phong linh réo rắt trong gió. Cô nghĩ đến lúc cả nhà ngồi quây quần bên bàn ăn, cùng hát bài Happy Birthday. Lúc đó, Con vỗ hai bàn tay nhỏ xíu vào nhau, đầu lắc lư, ê a hát theo mẹ và bà. Rồi con chu môi, phùng má cố thổi hai ngọn nến. Chắc hẳn những giọt nước mắt của cô sẽ chảy tràn mi vì hạnh phúc khi nhìn hình ảnh đó. 

Chỉ mới tưởng tượng vậy thôi, mà An đã nghe cay nồng đầu mũi.

An biết, cuộc đời của người mẹ đơn thân không dễ dàng gì. Gánh nặng cơm áo gạo tiền oằn trên vai, mà cô thì còn quá trẻ, tương lai còn mập mờ. Đôi lần tình cờ đi qua ngôi trường đại học, An bắt gặp ánh mắt mình đăm đắm nhìn vào khoảng sân thênh thang với những sinh viên tung tẩy cặp sách lượn lờ. Họ cùng trang lứa với cô, nhưng họ hồn nhiên và có lẽ chưa bao giờ đối diện với những gian nan như cô đã từng. Cuộc đời không trải thảm hoa  cho cô. Nhưng tình yêu thương của Bin, với cô là một món quà quý giá vô cùng, đủ để cô có nghị lực vượt qua những khó khăn trước mắt. Một ngày nào đó không xa, cô sẽ trở lại trường, bắt đầu lại tất cả, vì tương lai của Bin. Cô sẽ cố làm tất cả để bù đắp những thiệt thòi cho con, khi con không có một gia đình toàn vẹn. 

Trời bỗng trở gió. Những ngọn gió mạnh làm An lạc tay lái. Chiếc xe chao đảo, trượt một đường dài, lấn sang làn xe bên trái. Một chiếc xe tải trờ tới, hất tung xe An lên cao…

Đầu An đập vào cửa xe rồi bật xuống vô lăng. Một dòng máu chảy dài từ trán An… Trong mơ hồ, An thấy mình đang bay lên, tay cầm chiếc bánh Sinh Nhật. Hai ngọn nến nhảy múa lung linh . Và cu Bin đang chập chững chạy đến. Tiếng con gọi Mẹ ơi ! Mẹ ơi!   nhỏ dần, nhỏ dần… rồi chìm mất hút.
 
Trong bóng chiều xuống dần trên khoảng vườn rợp bóng cây, chú bé con đang ngồi trên bậc cửa, háo hức nhìn ra con đường trước mặt. Miệng em ngậm chiếc ti bằng cao su màu xanh, thỉnh thoảng lại nút chụt chụt. 
 
Có bóng xe trờ tới. Em nhổm dậy nhìn, rồi lại ngồi xuống. Không phải là mẹ.  Mẹ vẫn chưa về.

Em nhớ mẹ lắm. Chỉ chờ chiếc xe dừng lại trước sân, là em sẽ chạy ù ra và hét lên gọi mẹ thật to. 

Từ trong nhà, bà thẩn thờ nhìn ra ngoài. Không biết bao nhiêu buổi chiều rồi đứa cháu nhỏ của bà ngóng chờ mẹ . Ôi, đứa cháu tội nghiệp của bà, thằng bé còn nhỏ quá để biết rằng mẹ nó đã chết và không bao giờ nó còn có thể gặp lại mẹ trên cõi đời này. Nước mắt bà chảy dài trên má. Run run, bà lấy tay lau vội những giọt lệ, nghe trái tim của mình thắt lại.

Bà bước ra sân, cúi xuống vuốt mái tóc cu Bin:

—  Bin vào nhà ăn cơm với bà nhé.

Cu Bin lắc đầu nguầy nguậy:

—  Bin đợi mẹ, đợi mẹ…

Em đập tay vào chỗ trống bên cạnh, ra dấu cho bà ngồi xuống cùng em.

Bà nén tiếng thở dài, ghé ngồi cạnh em. Hình như cu Bin đã thấm mệt, em tựa người vào bà. 

Hoàng hôn ửng cuối trời. Những vầng sáng rực lên và chìm nhanh trong màn mây nhòa nhạt. 

Đàn chim chấp chới bay về tổ. Bóng đêm bao trùm xuống những vòm cây.

Ánh mắt cu Bin cụp xuống. Em mếu máo:

— Mẹ An, mẹ An ơi…

Tiếng đàn muỗi cỏ vo ve chung quanh. Bà quơ quơ tay, đuổi những con muỗi đói đang vờn quanh cu Bin, dỗ dành:

— Bà bế Bin vào nhé. Chừng nào mẹ An về gọi cửa, bà cháu mình sẽ mở cửa cho mẹ nhé. 

Bà cúi xuống xốc lấy cu Bin:

— Bin ngoan nào, bà thương nào.

Bóng hai bà cháu liêu xiêu hắt lên khung cửa vệt tối hắt hiu. 

Vẳng trong tiếng gió lao xao, có tiếng thút thít của cu Bin gọi mẹ.
 
BIỂN CÁT
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.