Hôm nay,  

Người Cha Ẩn Dụ

23/05/202500:00:00(Xem: 2284)
 
Lơ đảng nhìn mây trời và đèn đường, tôi từ tốn chuyển xe sang tuyến trái để cua. Cha tôi thường nói, “Con phải tập bỏ tính lơ đểnh, nếu không, sẽ có ngày gặp phiền phức.” Nhưng lơ đểnh là nơi nghệ sĩ lang thang, ngẫu hứng tìm thấy những sáng tạo không ngờ.

Chợt thoáng trong hộp kính nhìn lui, thấy chiếc xe đen nhỏ bắn lên với tốc độ nguy hiểm, tôi chuyển xe về lại bên phải, sau gáy dựng lên theo tiếng rít bánh xe thắng gấp chà xát mặt đường, trong kính chiếu hậu, một chiếc xe hạng trung màu xám đang chao đảo, trơn trợt, trờ tới, chết rồi, một áp lực kinh khiếp đập vào tâm trí trống rỗng, chỉ còn phản xạ tự động hiện diện. Chợt tiếng cha tôi vang lên: “đạp ga đi luôn.” Chân nhấn xuống, chiếc xe lồng lên, chồm tới như con cọp phóng chụp mồi. Giữa mơ hồ mất kiểm soát, tử sinh tích tắc, tôi thoáng nhận ra trước mặt là thành cây cầu bắt qua sông.

Cha tôi, người khá phức tạp, thuộc nhóm tiên phuông di tản năm 1975, rời Vũng Tàu, Việt Nam ngày 29 tháng Tư. Ông kinh doanh thành công một nửa, vì vậy tự hào một nửa và nửa kia mặc cảm. Ông làm chính trị không chức tước, có tài thuyết phục được một số người mến mộ, đôi lúc huênh hoang, thường bị mẹ tôi chỉnh sửa khi bà còn sống. Cái phức tạp tiềm ẩn bên trong, dường như bất kỳ điều gì, đều ông suy nghĩ chu đáo rồi thể hiện bằng ẩn dụ, những biểu tượng khôi hài, mỉa mai. Nghiệp dư của ông là nhà văn không đủ tài văn chương nhưng thừa tài lý luận.

Từ nhỏ, cha dạy tôi nhiều điều, hầu hết là những tượng trưng khó hiểu, nhưng lạ lùng vì những thứ tượng trưng đó rất dễ nhớ, khắc ghi vào tiềm thức. Khi lớn lên, tháo gỡ từng lớp một, dần dần tôi khám phá ra những gì ông muốn nói hoặc không muốn nói.

-       “Con sắp ra trường rồi, có dự định gì cho tương lai chưa?”

-       “Chưa, nhưng có lẽ con sẽ mượn tiền chính phủ học tiếp hoặc đi tìm việc làm. Con đang phân vân.”

-       “Phân vân là lẽ tự nhiên, nhưng phân vân quá lâu là việc bất thường.” Im lặng. Tôi chờ nghe ẩn dụ. Ông chìm vào suy tưởng. “Khi còn trẻ, phải học đạp thắng xe để tránh nguy cơ, bảo vệ bản thân, nhưng khi già dặn, đủ can đảm, phải tập đạp ga đi luôn, vượt qua hoặc đối đầu với khó khăn, xuyên nguy hiểm, đôi khi là cách hay nhất để làm người.” Sau khoảnh khắc im lặng, ông nói tiếp: “Chết chỉ một lần. Làm hay không làm đều hối tiếc.” Tôi cảm giác, câu nói sau dành riêng cho ông. Tâm sự luôn là ý nghĩ bị tình cảm gây rối rắm. Một thứ gì đó hiện diện trong cái muốn mà không dám làm.

-       “Nhưng thói quen, mọi người gặp nguy hiểm tự động sẽ đạp thắng.”

-       “Bất kỳ thói quen nào cũng có thể trở thành thói không quen. Phải có ý thức và phải tập luyện.” Tôi biết ông muốn nói gì. Ông đang trao lại cho tôi cái chân ga. 

Giờ đây, đạp ga đi luôn. Chân nhấn xuống, chiếc xe lồng lên, chồm tới như con cọp phóng chụp mồi. Giữa mơ hồ mất kiểm soát, tử sinh choáng váng, tôi thoáng nhận ra trước mặt là thành cây cầu bắt qua sông. Bẻ bánh lái về phía mặt. Chiếc xe va vào thành cầu, bật ra, va vào, bật ra, va vào, bật ra, lồng lộn, chòng chành, kềm tay lái, đạp thắng, chiếc xe giật kinh phong, rồi phun khói, phun nước, nhưng gầm thét dừng lại nằm ngang. Tất cả các xe khác dạt ra xa. Một số đàn ông xuống xe chạy đến tiếp cứu. Tôi vẫn còn lơ mơ dù biết phần nào câu chuyện xảy ra, nhưng do cảm giác hơn là ý thức.

-       “Con có bao giờ có ý tưởng viết văn chẳng hạn như viết truyện, làm thơ, không?” Ông và tôi đi bộ dạo quanh khu nhà ở sau giờ cơm chiều. Ông đối xử với tôi như người trưởng thành từ lúc tôi còn học trung học đệ nhất cấp. Thường xuyên đặt nhiều câu hỏi bất ngờ, nhưng không phải ngẫu nhiên.

-       “Chưa bao giờ. Con không có khiếu văn chương. Chỉ thích toán và khoa học.”

-       “Viết văn, làm thơ không phải để trở thành văn sĩ, thi sĩ như nhiều người lầm tưởng. Con biết không?”

-       “Con học giỏi toán để làm kỷ sư hoặc nhà vật lý. Con giỏi  khoa học để trở thành khoa học gia, bác học… Viết văn, làm thơ, không thành ai hết. Một người thường? Con không hiểu.”

-       “Ừ, khó hiểu. Nếu dễ thì những người viết văn, làm thơ đã hiểu. Giả dụ, là kỷ sư, nhà toán học, khoa học gia … nghĩa là phần tri thức và suy luận của con đã phát triển cao cấp, như vậy sẽ tạo ra hiện tượng mất thăng bằng giữa trí tuệ và tâm tình, giữa ý thức và vô thức.’

-       “Ý của ba là viết văn. làm thơ để bổ sung phần thiếu sót hoặc yếu kém của tâm tình?”

-       “Đúng. Con thấy ba viết văn rồi làm thơ nhưng đâu có ai gọi ba là văn sĩ hay thi sĩ. Một người bản lãnh cần phải chững chạc, nghĩa là càng giỏi càng phải có thăng bằng.”

-       “Thăng bằng theo kiểu 50/50?”

-       “Không, thăng bằng không phải cân bằng. Tâm hoặc trí sẽ có một cái trồi cao hơn khi con học tập. Ý thức hoặc vô thức sẽ có một cái vượt lên khi con sử dụng. Nhưng bước đi, không thể cứ bước một chân rồi lết chân kia. Đó là sự trì trệ và thành lũy tự tôn. Một cái Tôi què quặc. Hết bước chân này, hãy bước chân kia. Tiếp tục đi tới. Không ai biết tài năng dừng lại nơi nào. Không ai biết năng lực con người sao sâu đến đâu. Nội tâm mỗi người là một đại dương thu nhỏ bởi sự ngu dốt của cái Tôi. Con cứ nhớ như vậy.” Dù sao, tôi có tính nghệ sĩ vì thích lơ đểnh.

Trong cõi người ta thời nay, dễ chết nhất là tin người. Cha tôi thâm trầm, khôn ngoan nhưng rất dễ tin người, nhất là những người có đạo. Lạ hay quen, nếu là công giáo, cha tôi không chút nghi ngờ. Ông giao hết những công việc kinh doanh, kể cả những bí mật chính trị, tôi hỏi, tại sao?, ông nghiêm túc, họ là con Chúa.


Ông mướn anh tài xế công giáo, tên Thành, lái xe tải xăng cho công ty, phân phối xăng đến những làng xã ở xa và thâu tiền hàng tháng. Tôi bắt gặp anh này gian, đổ dầu lửa vào bồn để kiếm tiền riêng. Tôi kể lại, cha tôi không tin, dù tôi cũng công giáo. Có lẽ, ông biết, tôi, công giáo tệ. Tìm đủ mọi bằng chứng lẫn nhân chứng, trình bày chuyện gian của anh tài xế lần nữa, không bênh vực được, cha tôi nói, con nên học lòng tha thứ. Tôi trả lời, chiều nay lúc nó lái xe về, con sẽ bắt nó trả lại tiền gian lận.

Chờ đến tối, không thấy anh ta, người khác lái xe về. Mẹ tôi nói, cha cho tiền và chở anh tài xế ra bến xe đò, trở về quê. Tôi luôn khó chịu về tác dụng của từ bi bác ái, chỉ ích lợi cho một người, còn những người khác thiệt hại vì bán xăng pha dầu và những xe đổ xăng pha dầu càng tổn hại hơn. Cứu ít người để hại nhiều người, từ ái này không hợp lý, nhiều hại hơn lợi, từ ái trở thành không từ bi bác ái. Cha tôi nói, con lý luận kiểu trần gian. Thấy tôi vẫn bực bội,  Cha nói: _ “Muốn làm việc tốt lớn, thường khi phải làm chuyện xấu nhỏ.” Không muốn tranh cãi nhưng tôi tự hỏi: Làm sao biết cái tốt nào lớn, cái xấu nào nhỏ? Đánh giá theo năng suất hay theo hậu quả? Kết cuộc, hầu hết các kinh doanh của ông sau cùng rơi vào tay các người quản lý. Ông lạc quan với mất và nghèo.

Một hôm, đi học về sớm, đói bụng, lục cơm nguội ăn với chuối chín. Cha tôi nói, để ông chiên cơm hột gà. Ông ăn rất mặn. Nêm nếm vừa miệng xong, khoái trá, đột nhiên, ông vội vã bỏ mấy nắm đường vào chảo, vì sực nhớ tôi không ăn mặn. Nếm quá ngọt, thêm nước mắm. Rồi quá mặn, thêm nhúm đường. Đĩa cơm đó có mùi vị kỳ hoặc, mặn chát và ngọt lịm cùng một lúc. Nhai cơm, nước miếng trở thành chất keo quái đản, nuốt xuống, ợ lên. Cha theo dõi tôi ăn. Ông đến sau lưng, đặt hai tay lên vai, cúi xuống nói rất nhẹ. Con, mình đi phố ăn xôi lạp xưởng. Bình thường ông luôn nói lớn tiếng.

Đêm cuối trước khi trở về ký túc xá đại học chuẩn bị ra trường. Chúng tôi đi dạo với nhau rất lâu. Đêm càng lúc càng đen. Khu nhà ở đã yên tĩnh sau 7 giờ tối, chỉ trừ tiếng cha tôi thỉnh thoảng ho nghẹt vì cố nín. Những nóc nhà cao thấp đen xám nổi lên không trung lờ mờ ánh sao, nóc nhà thờ cao nổi bật cây thập giá, tiếng dế tiếng côn trùng dọc theo bước chân, cảm giác thế giới xa lạ, chỉ sống sót hai người thân thuộc. Cha tôi càng già càng gù, khuôn mặt ông cúi nhiều hơn ngẩn lên, đen nhiều hơn sáng. Đêm nay chúng tôi ít trò chuyện, để nhiều thời giờ đi lặng lẽ bên nhau. Sự lặng lẽ chứa bình yên lẫn lộn với lo lắng tạo ra cảnh ngộ bất an, có điều gì vượt ra ngoài ngôn ngữ. Không hiểu cha đang nghĩ  gì, bất chợt ông đưa tay vịn lên vai tôi.

Cử chỉ này khiến tôi nhớ lại ngày đưa linh cửu mẹ ra nghĩa trang, đứng trước huyệt mộ chưa lấp, cha lặng lẽ khá lâu, rồi vịn tay lên vai tôi, khá lâu. Vẫn không nói gì. Một hồi sau, ông đưa tôi ra về. Mãi lâu ngày, tôi mới tự giải thích, vịn vai, lặng lẽ trong chiều hoang vắng, cha tôi đã truyền cảm rằng, từ nay chỉ còn hai cha con mình.

Lúc đó, tôi mới lớn, thấp hơn ông nên vịn vai tôi là việc dễ dàng. Bây giờ tôi đã cao, ông lại thấp xuống, vịn lên vai là việc cố gắng. Những ngón tay  như cố bấm vào vai, sợ làm tôi đau, lại thả lỏng, rồi muốn tuột khỏi, những ngón tay vội vã bấu trở lại. Có lẽ tôi đi quá nhanh, ông không theo kịp. Có lẽ ông níu tôi lại để nói điều gì nhưng đắn đo không nói.  Có lẽ ông muốn giữa lại một sinh vật thân yêu sắp sửa ra đi. Tôi nghe được tiếng cha cố nén khi thở dài. Tiếng ho chận nghẹt. Rồi trời đất cảnh vật và chúng tôi đều im lặng. Đến một khúc quanh ngả tư gần nhà, những ngón tay từ từ thả ra, bàn tay rời khỏi vai, tôi vẫn bước đi, còn ông đứng lại.

ông nói:

_ “Mai con phải bay sớm. Mình nên quay về. Ba đã mua sẵn đồ ăn sáng. Mai hâm phở ăn, uống cà phê, rồi ba đưa con ra phi trường.”
– “Không cần đâu ba, con đi uber.”
_”Ba muốn uống một ly bia với con trước khi đi ngủ.”

Uống hết ly bia, Cha tôi nói: _ “Hôm qua ba nhận được tin anh Thành đã qua đời vì lao lực sinh bệnh ho lao.” _ “Thành lái xe?” _ “Thành là một người tốt. Mồ côi cha mẹ, lớn khôn trên đường phố. Anh ta bị đuổi việc nhiều lần vì gian lận, trước khi đến làm cho công ty mình. Hầu hết tiền anh kiếm được và tiền gian lận dùng để nuôi các trẻ mồ côi.” Ông dừng lấy hơi.

“Muốn làm việc tốt không phải dễ. Đa số người ta không muốn làm việc tốt nếu không có lợi. Nếu không quen làm việc tốt, sẽ luôn nghi ngờ việc tốt của người khác. Hơn nữa, họ công khai hoặc ngấm ngầm chống ai làm việc tốt. Việc tốt luôn bất lợi cho họ. Kể cả làm cho họ bị lu mờ.”  

Tôi trở thành nhà văn có tên tuổi. Hôm nay, cầm cuốn sách mới in, tôi đi sâu vào nghĩa trang. Nơi cha tôi nằm im lặng. Đứng đó. Đêm xuống. Bất kỳ nơi nào có người chết, nơi đó dễ sợ. Nơi có nhiều người chết, càng vô số chuyện kinh dị. Tôi không sợ người chết bằng người sống. Lần cuối cùng ngồi cạnh giường bệnh với cha, ông nói:

_ “Chắc ba không qua khỏi, ai rồi cũng phải đến lúc này. Con phải dành nhiều thời giờ chăm sóc con cái. Hối tiếc là hậu quả muộn màng của ngu dốt. Mẹ mất sớm, lẽ ra, ba phải chăm lo cho các con nhiều hơn.” Tôi hướng qua đề tài khác.
_ “Linh mục Phan sẽ đến ngày mai để làm phép thánh cho ba.”
_ “Không cần đâu, đêm trước ba ngủ đã gặp Chúa. Chúa đã cho ba biết Chúa giống ai.”
_ “Giống ai?” Tôi chăm chú. Ông nhìn lên cây thánh giá trên tường. Tôi biết ông đang tìm một ẩn dụ.
_ “Anh Thành tài xế.”                             
                   
Truyện 2,385 chữ. Ngu Yên. 2022

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.