Hôm nay,  

Người Cha Ẩn Dụ

23/05/202500:00:00(Xem: 1190)
 
Lơ đảng nhìn mây trời và đèn đường, tôi từ tốn chuyển xe sang tuyến trái để cua. Cha tôi thường nói, “Con phải tập bỏ tính lơ đểnh, nếu không, sẽ có ngày gặp phiền phức.” Nhưng lơ đểnh là nơi nghệ sĩ lang thang, ngẫu hứng tìm thấy những sáng tạo không ngờ.

Chợt thoáng trong hộp kính nhìn lui, thấy chiếc xe đen nhỏ bắn lên với tốc độ nguy hiểm, tôi chuyển xe về lại bên phải, sau gáy dựng lên theo tiếng rít bánh xe thắng gấp chà xát mặt đường, trong kính chiếu hậu, một chiếc xe hạng trung màu xám đang chao đảo, trơn trợt, trờ tới, chết rồi, một áp lực kinh khiếp đập vào tâm trí trống rỗng, chỉ còn phản xạ tự động hiện diện. Chợt tiếng cha tôi vang lên: “đạp ga đi luôn.” Chân nhấn xuống, chiếc xe lồng lên, chồm tới như con cọp phóng chụp mồi. Giữa mơ hồ mất kiểm soát, tử sinh tích tắc, tôi thoáng nhận ra trước mặt là thành cây cầu bắt qua sông.

Cha tôi, người khá phức tạp, thuộc nhóm tiên phuông di tản năm 1975, rời Vũng Tàu, Việt Nam ngày 29 tháng Tư. Ông kinh doanh thành công một nửa, vì vậy tự hào một nửa và nửa kia mặc cảm. Ông làm chính trị không chức tước, có tài thuyết phục được một số người mến mộ, đôi lúc huênh hoang, thường bị mẹ tôi chỉnh sửa khi bà còn sống. Cái phức tạp tiềm ẩn bên trong, dường như bất kỳ điều gì, đều ông suy nghĩ chu đáo rồi thể hiện bằng ẩn dụ, những biểu tượng khôi hài, mỉa mai. Nghiệp dư của ông là nhà văn không đủ tài văn chương nhưng thừa tài lý luận.

Từ nhỏ, cha dạy tôi nhiều điều, hầu hết là những tượng trưng khó hiểu, nhưng lạ lùng vì những thứ tượng trưng đó rất dễ nhớ, khắc ghi vào tiềm thức. Khi lớn lên, tháo gỡ từng lớp một, dần dần tôi khám phá ra những gì ông muốn nói hoặc không muốn nói.

-       “Con sắp ra trường rồi, có dự định gì cho tương lai chưa?”

-       “Chưa, nhưng có lẽ con sẽ mượn tiền chính phủ học tiếp hoặc đi tìm việc làm. Con đang phân vân.”

-       “Phân vân là lẽ tự nhiên, nhưng phân vân quá lâu là việc bất thường.” Im lặng. Tôi chờ nghe ẩn dụ. Ông chìm vào suy tưởng. “Khi còn trẻ, phải học đạp thắng xe để tránh nguy cơ, bảo vệ bản thân, nhưng khi già dặn, đủ can đảm, phải tập đạp ga đi luôn, vượt qua hoặc đối đầu với khó khăn, xuyên nguy hiểm, đôi khi là cách hay nhất để làm người.” Sau khoảnh khắc im lặng, ông nói tiếp: “Chết chỉ một lần. Làm hay không làm đều hối tiếc.” Tôi cảm giác, câu nói sau dành riêng cho ông. Tâm sự luôn là ý nghĩ bị tình cảm gây rối rắm. Một thứ gì đó hiện diện trong cái muốn mà không dám làm.

-       “Nhưng thói quen, mọi người gặp nguy hiểm tự động sẽ đạp thắng.”

-       “Bất kỳ thói quen nào cũng có thể trở thành thói không quen. Phải có ý thức và phải tập luyện.” Tôi biết ông muốn nói gì. Ông đang trao lại cho tôi cái chân ga. 

Giờ đây, đạp ga đi luôn. Chân nhấn xuống, chiếc xe lồng lên, chồm tới như con cọp phóng chụp mồi. Giữa mơ hồ mất kiểm soát, tử sinh choáng váng, tôi thoáng nhận ra trước mặt là thành cây cầu bắt qua sông. Bẻ bánh lái về phía mặt. Chiếc xe va vào thành cầu, bật ra, va vào, bật ra, va vào, bật ra, lồng lộn, chòng chành, kềm tay lái, đạp thắng, chiếc xe giật kinh phong, rồi phun khói, phun nước, nhưng gầm thét dừng lại nằm ngang. Tất cả các xe khác dạt ra xa. Một số đàn ông xuống xe chạy đến tiếp cứu. Tôi vẫn còn lơ mơ dù biết phần nào câu chuyện xảy ra, nhưng do cảm giác hơn là ý thức.

-       “Con có bao giờ có ý tưởng viết văn chẳng hạn như viết truyện, làm thơ, không?” Ông và tôi đi bộ dạo quanh khu nhà ở sau giờ cơm chiều. Ông đối xử với tôi như người trưởng thành từ lúc tôi còn học trung học đệ nhất cấp. Thường xuyên đặt nhiều câu hỏi bất ngờ, nhưng không phải ngẫu nhiên.

-       “Chưa bao giờ. Con không có khiếu văn chương. Chỉ thích toán và khoa học.”

-       “Viết văn, làm thơ không phải để trở thành văn sĩ, thi sĩ như nhiều người lầm tưởng. Con biết không?”

-       “Con học giỏi toán để làm kỷ sư hoặc nhà vật lý. Con giỏi  khoa học để trở thành khoa học gia, bác học… Viết văn, làm thơ, không thành ai hết. Một người thường? Con không hiểu.”

-       “Ừ, khó hiểu. Nếu dễ thì những người viết văn, làm thơ đã hiểu. Giả dụ, là kỷ sư, nhà toán học, khoa học gia … nghĩa là phần tri thức và suy luận của con đã phát triển cao cấp, như vậy sẽ tạo ra hiện tượng mất thăng bằng giữa trí tuệ và tâm tình, giữa ý thức và vô thức.’

-       “Ý của ba là viết văn. làm thơ để bổ sung phần thiếu sót hoặc yếu kém của tâm tình?”

-       “Đúng. Con thấy ba viết văn rồi làm thơ nhưng đâu có ai gọi ba là văn sĩ hay thi sĩ. Một người bản lãnh cần phải chững chạc, nghĩa là càng giỏi càng phải có thăng bằng.”

-       “Thăng bằng theo kiểu 50/50?”

-       “Không, thăng bằng không phải cân bằng. Tâm hoặc trí sẽ có một cái trồi cao hơn khi con học tập. Ý thức hoặc vô thức sẽ có một cái vượt lên khi con sử dụng. Nhưng bước đi, không thể cứ bước một chân rồi lết chân kia. Đó là sự trì trệ và thành lũy tự tôn. Một cái Tôi què quặc. Hết bước chân này, hãy bước chân kia. Tiếp tục đi tới. Không ai biết tài năng dừng lại nơi nào. Không ai biết năng lực con người sao sâu đến đâu. Nội tâm mỗi người là một đại dương thu nhỏ bởi sự ngu dốt của cái Tôi. Con cứ nhớ như vậy.” Dù sao, tôi có tính nghệ sĩ vì thích lơ đểnh.

Trong cõi người ta thời nay, dễ chết nhất là tin người. Cha tôi thâm trầm, khôn ngoan nhưng rất dễ tin người, nhất là những người có đạo. Lạ hay quen, nếu là công giáo, cha tôi không chút nghi ngờ. Ông giao hết những công việc kinh doanh, kể cả những bí mật chính trị, tôi hỏi, tại sao?, ông nghiêm túc, họ là con Chúa.


Ông mướn anh tài xế công giáo, tên Thành, lái xe tải xăng cho công ty, phân phối xăng đến những làng xã ở xa và thâu tiền hàng tháng. Tôi bắt gặp anh này gian, đổ dầu lửa vào bồn để kiếm tiền riêng. Tôi kể lại, cha tôi không tin, dù tôi cũng công giáo. Có lẽ, ông biết, tôi, công giáo tệ. Tìm đủ mọi bằng chứng lẫn nhân chứng, trình bày chuyện gian của anh tài xế lần nữa, không bênh vực được, cha tôi nói, con nên học lòng tha thứ. Tôi trả lời, chiều nay lúc nó lái xe về, con sẽ bắt nó trả lại tiền gian lận.

Chờ đến tối, không thấy anh ta, người khác lái xe về. Mẹ tôi nói, cha cho tiền và chở anh tài xế ra bến xe đò, trở về quê. Tôi luôn khó chịu về tác dụng của từ bi bác ái, chỉ ích lợi cho một người, còn những người khác thiệt hại vì bán xăng pha dầu và những xe đổ xăng pha dầu càng tổn hại hơn. Cứu ít người để hại nhiều người, từ ái này không hợp lý, nhiều hại hơn lợi, từ ái trở thành không từ bi bác ái. Cha tôi nói, con lý luận kiểu trần gian. Thấy tôi vẫn bực bội,  Cha nói: _ “Muốn làm việc tốt lớn, thường khi phải làm chuyện xấu nhỏ.” Không muốn tranh cãi nhưng tôi tự hỏi: Làm sao biết cái tốt nào lớn, cái xấu nào nhỏ? Đánh giá theo năng suất hay theo hậu quả? Kết cuộc, hầu hết các kinh doanh của ông sau cùng rơi vào tay các người quản lý. Ông lạc quan với mất và nghèo.

Một hôm, đi học về sớm, đói bụng, lục cơm nguội ăn với chuối chín. Cha tôi nói, để ông chiên cơm hột gà. Ông ăn rất mặn. Nêm nếm vừa miệng xong, khoái trá, đột nhiên, ông vội vã bỏ mấy nắm đường vào chảo, vì sực nhớ tôi không ăn mặn. Nếm quá ngọt, thêm nước mắm. Rồi quá mặn, thêm nhúm đường. Đĩa cơm đó có mùi vị kỳ hoặc, mặn chát và ngọt lịm cùng một lúc. Nhai cơm, nước miếng trở thành chất keo quái đản, nuốt xuống, ợ lên. Cha theo dõi tôi ăn. Ông đến sau lưng, đặt hai tay lên vai, cúi xuống nói rất nhẹ. Con, mình đi phố ăn xôi lạp xưởng. Bình thường ông luôn nói lớn tiếng.

Đêm cuối trước khi trở về ký túc xá đại học chuẩn bị ra trường. Chúng tôi đi dạo với nhau rất lâu. Đêm càng lúc càng đen. Khu nhà ở đã yên tĩnh sau 7 giờ tối, chỉ trừ tiếng cha tôi thỉnh thoảng ho nghẹt vì cố nín. Những nóc nhà cao thấp đen xám nổi lên không trung lờ mờ ánh sao, nóc nhà thờ cao nổi bật cây thập giá, tiếng dế tiếng côn trùng dọc theo bước chân, cảm giác thế giới xa lạ, chỉ sống sót hai người thân thuộc. Cha tôi càng già càng gù, khuôn mặt ông cúi nhiều hơn ngẩn lên, đen nhiều hơn sáng. Đêm nay chúng tôi ít trò chuyện, để nhiều thời giờ đi lặng lẽ bên nhau. Sự lặng lẽ chứa bình yên lẫn lộn với lo lắng tạo ra cảnh ngộ bất an, có điều gì vượt ra ngoài ngôn ngữ. Không hiểu cha đang nghĩ  gì, bất chợt ông đưa tay vịn lên vai tôi.

Cử chỉ này khiến tôi nhớ lại ngày đưa linh cửu mẹ ra nghĩa trang, đứng trước huyệt mộ chưa lấp, cha lặng lẽ khá lâu, rồi vịn tay lên vai tôi, khá lâu. Vẫn không nói gì. Một hồi sau, ông đưa tôi ra về. Mãi lâu ngày, tôi mới tự giải thích, vịn vai, lặng lẽ trong chiều hoang vắng, cha tôi đã truyền cảm rằng, từ nay chỉ còn hai cha con mình.

Lúc đó, tôi mới lớn, thấp hơn ông nên vịn vai tôi là việc dễ dàng. Bây giờ tôi đã cao, ông lại thấp xuống, vịn lên vai là việc cố gắng. Những ngón tay  như cố bấm vào vai, sợ làm tôi đau, lại thả lỏng, rồi muốn tuột khỏi, những ngón tay vội vã bấu trở lại. Có lẽ tôi đi quá nhanh, ông không theo kịp. Có lẽ ông níu tôi lại để nói điều gì nhưng đắn đo không nói.  Có lẽ ông muốn giữa lại một sinh vật thân yêu sắp sửa ra đi. Tôi nghe được tiếng cha cố nén khi thở dài. Tiếng ho chận nghẹt. Rồi trời đất cảnh vật và chúng tôi đều im lặng. Đến một khúc quanh ngả tư gần nhà, những ngón tay từ từ thả ra, bàn tay rời khỏi vai, tôi vẫn bước đi, còn ông đứng lại.

ông nói:

_ “Mai con phải bay sớm. Mình nên quay về. Ba đã mua sẵn đồ ăn sáng. Mai hâm phở ăn, uống cà phê, rồi ba đưa con ra phi trường.”
– “Không cần đâu ba, con đi uber.”
_”Ba muốn uống một ly bia với con trước khi đi ngủ.”

Uống hết ly bia, Cha tôi nói: _ “Hôm qua ba nhận được tin anh Thành đã qua đời vì lao lực sinh bệnh ho lao.” _ “Thành lái xe?” _ “Thành là một người tốt. Mồ côi cha mẹ, lớn khôn trên đường phố. Anh ta bị đuổi việc nhiều lần vì gian lận, trước khi đến làm cho công ty mình. Hầu hết tiền anh kiếm được và tiền gian lận dùng để nuôi các trẻ mồ côi.” Ông dừng lấy hơi.

“Muốn làm việc tốt không phải dễ. Đa số người ta không muốn làm việc tốt nếu không có lợi. Nếu không quen làm việc tốt, sẽ luôn nghi ngờ việc tốt của người khác. Hơn nữa, họ công khai hoặc ngấm ngầm chống ai làm việc tốt. Việc tốt luôn bất lợi cho họ. Kể cả làm cho họ bị lu mờ.”  

Tôi trở thành nhà văn có tên tuổi. Hôm nay, cầm cuốn sách mới in, tôi đi sâu vào nghĩa trang. Nơi cha tôi nằm im lặng. Đứng đó. Đêm xuống. Bất kỳ nơi nào có người chết, nơi đó dễ sợ. Nơi có nhiều người chết, càng vô số chuyện kinh dị. Tôi không sợ người chết bằng người sống. Lần cuối cùng ngồi cạnh giường bệnh với cha, ông nói:

_ “Chắc ba không qua khỏi, ai rồi cũng phải đến lúc này. Con phải dành nhiều thời giờ chăm sóc con cái. Hối tiếc là hậu quả muộn màng của ngu dốt. Mẹ mất sớm, lẽ ra, ba phải chăm lo cho các con nhiều hơn.” Tôi hướng qua đề tài khác.
_ “Linh mục Phan sẽ đến ngày mai để làm phép thánh cho ba.”
_ “Không cần đâu, đêm trước ba ngủ đã gặp Chúa. Chúa đã cho ba biết Chúa giống ai.”
_ “Giống ai?” Tôi chăm chú. Ông nhìn lên cây thánh giá trên tường. Tôi biết ông đang tìm một ẩn dụ.
_ “Anh Thành tài xế.”                             
                   
Truyện 2,385 chữ. Ngu Yên. 2022

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Không nhớ từ bao giờ đã không còn ngồi xuống bàn trà, tay bốc miếng mứt hạt sen bỏ vô miệng, vị ngọt tươm ra không quá gắt như ăn miếng mứt bí, vị ngọt nhẹ, thanh, kích thích vị giác bởi hương sen quyện ngọt điệu đà, tới khi nhai cái hạt sen đã ấm ấm trong miệng nên không còn cứng cũng không quá mềm như khoai lang luộc. Độ dẻo của hạt sen khi đã sên mứt rất mê hoặc và cũng đâu có gì vội để nuốt đi cho mau, cứ ngậm mà nghe hương vị đất trời tinh khiết của hương sen xông lên khoang mũi làm cho người thưởng thức lâng lâng cảm giác xuân đã về. Có thể nói món gì có hạt sen góp mặt cũng ngon như món vịt tiềm có nhân bên trong là thịt bằm, nấm mèo, táo tàu, gia vị nhiều thứ, nhưng những hạt sen luôn khêu gợi những đôi đũa gắp vì hấp dẫn và ngon lạ miệng. Nhưng đã nhiều năm không ăn mứt hạt sen sao vẫn nhớ khá rõ hương vị độc đáo của hạt sen trong món ngọt ăn chơi ngày tết, hay món mặn ăn tiệc đều ngon.
Cậu Hà người Bắc di cư năm 1954, cậu di cư có một thân một mình khi còn trẻ, nên cậu cũng không có nhiều phương tiện được học hành nhiều. Khi lớn lên ở miền Nam, lối chừng 19, 20 tuổi khoảng năm 1965-1966, cậu từ giã học đường đăng lính, cậu đi lính Việt Nam Cộng Hòa ngành Biệt Động Quân. Sau chuyển qua Thám Báo. Cậu đóng quân như ở miền đồng ruộng, lúc bấy giờ còn loáng thoáng xa xa, ít dân cư, tiếp giáp một bên Đồng Ông Cộ, miệt Gò Vấp, Gia Định.
Chị nhớ lại, vào một buổi sáng ngày cuối tháng 1 năm 1973, khi Chị đi lấy bản tin ở bên Macv về cho AP, chị thấy sao hôm nay văn phòng đông thế. Ký giả của AP và cả của NBC News bên cạnh cũng chạy qua chạy lại, Chị nghe ông chánh văn phòng nói: Viêt Nam sắp ngưng bắn rồi, sắp hòa bình rồi…” Văn phòng Associated Press xôn xao, từ ông chánh văn phòng đến các ký giả, nhân viên của AP đều hứng khởi với cái tin “Nóng bỏng” này. Chị thấy các phóng viên của các hãng thông tấn, hãng truyền hình ngoại quốc chạy hối hả sang nhau và chạy qua cả đài phát thanh Quân Đội Việt Nam để cập nhật tin tức viết bài…
Chị đi bằng xe hàng. Là dân Đà Lạt gốc Huế nên chị gọi xe đò là “xe hàng”. Đi xe hàng, tức là xe đò, là xe chở người và cả hàng chứ không chở riêng hàng. Tiếng Việt hay như vậy đó! Đến Gò Công rồi đi xe lam vào Đồng Nguơn. Ấp Đồng Nguơn. Không phải đây là lần đầu tiên chị được thấy cảnh đồng quê. Đồng quê miền nam hầu như đâu đâu cũng giống nhau. Nhưng có đi nhiều mới thấy mỗi nơi có một chút khác. Phải thế không? Hay chính là cảm giác của chị mỗi lần một khác?
Tôi ước mơ có một ngày nào đó, khi thanh bình thật sự trở về trên nước VN, khi chính thể CS hoàn toàn tan rã, khi con người công chính trở lại làm nền tảng trong xã hội mới, chúng ta sẽ trở về, những ngưới bạn từ thời xa xưa, cùng nhau làm lại một bữa tiệc Tất Niên, mời vong linh các thầy, các bạn, các anh em đồng đội đã chết trong khói lửa chinh chiến, trong các biến cố tang thương của đất nước, trong các trại tù, trên biển…cùng nhập tiệc. Kẻ đang sống cùng người thiên cổ bên cạnh nhau hoài niệm đến một miền thùy dương ngọt ngào nhân tính, một ngôi trường thân yêu giàu truyền thống giáo dục và y đức, một thành phố mến yêu thơ mộng. Để nghe những người quá cố tâm sự về cái chết oan khiên của mình. Được như vậy, hương hồn các vị đó sẽ sớm được siêu thoát và vĩnh viễn an nghỉ chốn nghìn thu. Và chúng ta đây giảm khắc khoải đau thương…
Tôi đã có bốn cái Tết trong trại Panatnikhom và Sikiew, Thailand. Tết đầu tiên thật nhiều kỷ niệm và bất ngờ, vì lúc đó chúng tôi vừa nhập trại trong khi còn hơn một tuần nữa là Tết. Tôi và ba cô bạn đi chung chưa kịp gửi thư cho thân nhân ở nước ngoài để ca bài ca “xin tiền”. Ai lo bận bịu đón Tết thì lo, còn chúng tôi thì lo đi mượn tiền để mua vài vật dụng cần thiết như tấm trải nhựa, tre nứa, dây nilon để làm “nhà” (phải “an cư” mới “lập nghiệp” tỵ nạn được chớ).Khoảng một tuần trước Tết, có một nhóm mấy thanh niên đến thăm vì nghe nói chúng tôi là dân Gò Vấp, nên muốn nhận “đồng hương đồng khói”. Họ là những người trẻ như chúng tôi, nên câu chuyện mau chóng trở nên thân mật và rôm rả
Hỏi thăm ông Hai bán hoa lay-ơn gốc Bình Kiến, nhiều người ngơ ngác hỏi nhau. Tôi lại rảo qua thêm mấy vòng chợ hoa, cũng vừa đi tìm ông Hai, cũng vừa ngắm hoa và ngắm những chậu bonsai bày bán cuối năm, cũng tìm lại mình của gần 20 năm trước, năm nào cũng cứ vào những ngày này, tôi theo ba tôi hóng gió đón sương không hề chợp mắt cùng gian hàng cây kiểng rất bề thế của ba ở đây.
Có lẽ những rộn ràng, hân hoan nhất trong năm không phải là "ba ngày tết", mà là những ngày cận tết. Bắt đầu vào ngày 23 tháng chạp, tối đưa ông Táo về trời. Tất cả mọi sinh hoạt đều hướng về việc chuẩn bị để đón một mùa xuân mới, chào đón nguyên đán và mấy ngày xuân trước mặt. Lúc nhỏ là mùi vải thơm của bộ đồ mới, mùi gạo nếp ngâm cho nồi bánh và hương thơm ngào ngạt cho sàng phơi mứt dừa, mứt bí, mứt gừng ngoài sân. Những đêm ngủ gà ngủ gật ngồi canh bên nồi bánh tét cùng với má, với gia đình xúm quanh. Mùi bếp lửa, mùi khói hương, mùi áo mới lan tỏa của tuổi thơ ngan ngát những ngày xa...
Người ta được nuôi lớn không chỉ bằng thức ăn, mà còn ở lời ru, tiếng hát, và những câu chuyện kể. Chú bé cháu của bà thích được bà ôm vác, gối đầu lên vai bà. Có khi bà mở nhạc từ chiếc nôi cho chú nghe thay cho lời hát, chiếc nôi chú bé đã nằm khi mới lọt lòng mẹ. Có khi bà hát. Bà không ru à ơi, nhưng âm điệu dân gian len vào trong từng lời hát. Chú bé mãi rồi ghiền nghe giọng hát của bà.
Lóng rày tôi hay tẩn mẩn viết về những hồi tưởng tuổi thơ, nhất là những côn trùng ngày xa xưa đó như chuồn chuồn, bươm bướm, ve sầu, dế mèn…Nhiều lúc ngồi nghĩ lẩn thẩn: tại sao vậy? Chắc đó là tâm trạng của người tuổi sắp hết đếm số, tiếc nuối những khi còn cắp sách tới trường. Cắp sách tới trường không phải là chuyện vui nhưng tuổi học trò thì vui thật. Lúc nào, khi nào, chỗ nào cũng toàn thấy chuyện vui chơi. Bạn chơi là người nhưng nhiều lúc là những côn trùng quanh quẩn bên người. Một ông bạn mới gặp nhướng mắt hỏi tôi viết về những bạn chơi nhiều hơn hai chân nhưng chưa thấy nhắc tới bạn của ông ấy. Đó là bọ ngựa. Ông này thuộc loại rắn mắt. Tôi không chung tuổi thơ với ông nhưng chắc ông cũng thuộc loại phá làng phá xóm. Ông kể chuyện ăn me chua trước mấy ông lính thổi kèn trong hàng ngũ khiến mấy ông thợ kèn này chảy nước miếng thổi không được. Tôi thuộc loại hiền nên không có bạn không hiền như bọ ngựa. Ông ta thì khoái bọ ngựa.
“Mày có vợ hồi nào vậy?” chưa kịp chào, mẹ đã ném ra câu hỏi bất ngờ. Tôi lặng thinh. Cục nghẹn trong cổ họng. Tiếng mẹ đã khàn nhưng nghe vẫn quen, vẫn gần gũi, nhưng đặm chút ngạc nhiên và thấp thoáng chút phiền muộn. Hệt như lần hỏi tôi mười mấy năm trước rằng Sao con trốn học. Đường dây điện thoại chợt kêu ù ù, như thể có máy bay hay xe vận tải cơ giới hạng nặng chạy qua chỗ mẹ đứng. Cũng có thể tại tai tôi ù. Tôi cũng không chắc lắm. Giọng nói mẹ chìm vào khối tạp âm hỗn độn. Mẹ lặp lại câu hỏi trong tiếng động cơ rì rầm. Rồi tất cả im vắng bất ngờ. “Hở con?” Mẹ nói.
Bê, con trai của Mẹ, đã theo Mẹ đến giảng đường từ thuở còn trong bụng Mẹ. Suốt thời gian đại học của Mẹ, Bê có nhiều đóng góp khác nhau theo từng thời kỳ. Khi Mẹ làm bài kiểm tra môn Đầu Tư và Tài Chính trong lục cá nguyệt đầu tiên, Bê mới ba tháng tuổi. Mẹ nhẩm tính, bài thi một tiếng rưỡi, đi về từ nhà đến trường thêm một tiếng rưỡi. Như vậy, Bê phải xa Mẹ ít nhất ba tiếng đồng hồ. Mẹ biết tính Bê, mỗi hai tiếng đồng hồ Bê oe oe đòi bú sữa Mẹ. Bê xấu đói lắm, đòi mà không được, Bê nhăn nhó um sùm. Ngày hôm đó, dì Thành đến giữ Bê. Dì Thành rất hồi hộp. Dì chưa có em bé, chẳng biết phải làm sao cho đúng ý Bê. Mẹ thi xong, phóng ra xe về nhà. Mẹ bắt đầu sốt ruột. Mẹ xa Bê đã hơn ba tiếng đồng hồ. Giờ này Bê chắc Bê đã thức giấc. Hy vọng Bê chịu khó nhâm nhi món trà thảo dược cho trẻ sơ sinh trong khi chờ Mẹ về. Thời đó chưa có điện thoại di động. Bởi vậy, có lo cũng để bụng, chứ Mẹ chẳng biết làm sao. Mẹ ba chân bốn cẳng chạy ba tầng lầu. Vừa đến cửa đã nghe tiếng Bê khóc ngằn ngặt.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.