Hôm nay,  

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

06/06/202500:00:00(Xem: 338)
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?”
Thơ Kiều của cụ Nguyễn Du
 
Có một lần đó thầy kể lại chuyện rằng, thầy có một phật tử chăm chỉ tu học, đã hơn 10 năm, theo thầy đi khắp nơi, qua nhiều đạo tràng, chuyên tu chuyên nghe rất thành kính. Nhưng có một lần đó phật tử đứng gần thầy, nghe thầy giảng về phát bồ đề tâm, sau thầy có đặt một vài câu hỏi kiểm tra coi thính chúng hiểu bài tới đâu? Cô vội xua xua tay, “bạch thầy, những điều thầy giảng, con hiểu hết, con hiểu hết mà. Con nhớ nhập tâm. Nhưng đừng, thầy đừng có hỏi, bị là con không biết trả lời làm sao đâu.” Có lẽ là cô hiểu ý mà cô chưa sẵn sàng hệ thống sắp xếp thứ tự lại các ý tưởng.
 
Và may thay có một người bạn đạo, ngồi khít bên đỡ lời, “đúng vậy, nhất thiết chúng sanh giai hữu phật tánh,” điều hoan hỉ là mọi người đã chăm chú nghe, đã hiểu, đã hiểu lời thầy giảng, nhưng đa phần chúng mình không thể nói lại ngay những lờ giảng dậy, vì nói được thì phải nói rất đúng, rất hay như chánh pháp, còn không, hãy im lặng như chánh pháp. A Di Đà Phật!
 
Có người nói hay (hay viết hay cũng thế) như ông nhà văn Thanh Tịnh thì nhắc tới, ai cũng biết câu văn thân thuộc của ông: “… hàng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm mênh mang của tuổi tựu trường… buổi mai hôm ấy…”
 
Y vậy, Anatole France, của Pháp, vẫn kể rằng: «hàng năm, khi bầu trời chập chùng le ciel agité của mùa thu và những bữa cơm chiều đầu tiên dưới ngọn đèn và những lá cây vàng úa trên cành cây rung động, lại gợi lại cho tôi những gì?”
 
Đó là hình ảnh một cậu bé lưng đeo cặp sách, vừa đi vừa nhảy những bước chân sáo băng ngang vườn Lục Xâm Bảo… vào những lúc đẹp nhứt là lúc những chiếc lá vàng rơi lả tả trên vai những pho tượng trắng trong vườn… vâng đó là hình ảnh của tôi, của chính tôi 25 năm trước…
 
Còn ngược lại, cũng có những người nói nhiều, nói lớn, mà đố có ai bên cạnh hiểu được họ muốn nói gì, họ rất gần và rất xa nhau. Người ta kể rằng mấy ông giáo sư đại học Harvard nói lại trong một lớp học, học trò ông đang tranh luận, bàn cãi về một vấn đề. Thì các sinh viên của ông ăn nói rất lưu loát và tốt giọng, nghĩa là anh này nói thiệt lớn, đối diện một cô bạn cũng nói thao thao không ngừng nghỉ, à là họ tranh luận rất logique. Nhưng họ càng nói nhiều, càng không hiểu nhau lắm vì họ ít để ý đến lời của nhau. Họ đứng rất gần, nói rất lớn giọng, mà tâm ý họ càng xa nhau… rồi kết luận không khả quan. Y như vậy, cô A kể, ai cũng thấy, trên một chuyến xe métro, mọi người ngồi kế bên nhau, mà họ rất xa nhau, vì là mỗi người đang coi một cái tablette hay Ipad, theo dõi những câu chuyện riêng tư của mỗi người... đến nỗi tai nạn xẩy ra với người này, người kia ít có hay, để trợ giúp nhau kịp thời. Tựu trung, nói nhiều quá, hay không nói, đều không tốt.
 
Một nhà văn Thổ Nhĩ Kỳ ví thế giới hôm nay hơi giống một bệnh viện tâm thần, khi một người hảo tâm muốn vào vấn an những bệnh nhân, họ đối thoại và nhận thấy những câu trả lời đối đáp qua lại của đa số bệnh nhân đều có lý, đều có một hàm ý và không phải là vu vơ, không phải là điên loạn mà trả lời lung tung, nhưng, nếu ráp nối những câu trả lời đó lại, người ta không thể hiểu họ muốn nói gì?
 
Cũng tương tự như thế giới từ đông sang tây, có rất nhiều doanh nhân, danh nhân hào nhoáng, tài giỏi, họ đưa trình, thể hiện các nền văn minh hiện đại, với tất cả nghệ thuật khôn khéo để hóa trang, để mua bán chính trị và quyền lợi làm đảo lộn đa phần nền văn minh và đạo đức nhân bản gây thảm họa không ngừng cho nhân loại.
 
Điển hình như đại dịch covid vừa qua. Bao tang thương, bao khốn khổ khắp nơi nơi, rồi tất cả cứ đổ tội đời là vô thường.
 
Mà đời là vô thường thiệt, vì nhân loại đang chịu trận, chứ có làm gì chống đối lại được những kẻ nắm quyền, nhiều thế lực... nhiều ảnh hưởng và dã man. Ở một khía cạnh khác, về tâm linh, đời là vô thường.
 
Như chuyện kể sư cô Diệu Trí ở chùa Tâm Ấn, một miền hẻo lánh ở Đại Từ, vùng phụ cận xa lắc xa lơ Hà Nội.
 
Sư cô kể rằng, khi đại dịch covid vừa tạm yên yên, chùa tổ chức lễ cúng vong, bái sám và xin hồi hướng công phu cho các vong linh quanh vùng vừa quá vãng. Thì có một buổi xế trưa vào chiều, chùa có hai người khách xin ghi tên những người thân quen qua đời trong nạn covid, đặng xin độ niệm cho họ siêu thoát.
Một người thì ghi một cái danh sách tên tuổi pháp danh người thân dài thiệt dài, cả một trang giấy, sư cô đặt câu hỏi:
 
Thí chủ cầu cho nhiều người thế, chẳng hay là thí chủ phát tâm xin cúng cho cả gia đình toàn thể nội ngoại, cả bà con bạn bè, hay cả khu phố sao? Ừ thì đa tạ tâm bồ đề của thí chủ.
 
Bạch sư cô là, nói nào ngay, trước đây ngoài gia đình thân quyến, con lỡ cãi lộn, gây lộn với tụi họ nhiều lắm, nay con buồn, con nghĩ con phải xin cúng, cầu hồng ân tam bảo gia hộ cho chúng họ siêu thoát.
 
A Di Đà Phật.
 
Xong sư cô coi danh sách xin vong của người khách thứ hai, trong tờ giấy, chỉ vỏn vẹn có hai tên người, là cha cô và mẹ cô.
 
Sư cô không thắc mắc… nhưng rồi người này cũng buồn buồn kể lể:
 
Con cũng có nhiều người thân, người quen biết lắm mà giờ này, chúng họ hình như bệnh mà chết hết ráo trọi, hay chán đời dọn bỏ đi đâu xa hết rồi.
 
Con không còn nhớ được họ nữa. Nhớ chi cho mệt! Cô Diệu Tâm hơi tức cười mà cố nín lặng.
 
A Di Đà Phật. Sự thế đó gọi là vô thuờng. Rồi họ cùng im lặng. Sư cô sau đó mời họ dùng trà và cùng lễ phật... cô mời họ cùng nghe nhạc thiền, hòa tự tâm bình, bản nhạc êm dịu nhẹ nhàng phảng phất ít nhiều tư tưởng của kinh Trung A Hàm, bản kinh truyền tải thông điệp về lòng nhân ái và tình thương của đạo pháp.
 
Sư cô Diệu Tâm nhắc nhở được ít nhiều những lời giảng của thầy Thích Tâm Đức gần đây, nhứt là trong mùa phật đản, thầy nhấn mạnh về một trong bốn nguyện của tứ hoằng thệ nguyện, chúng sanh vô biên thệ nguyện độ.
 
Thầy am hiểu phật tử đến chùa, chùa là nơi thanh tịnh thầy giảng trò nghe, bạn đạo yêu kính và hiếu thuận nhau, thì việc tu tập khá dễ dàng. Nhưng trong cuộc sống hàng ngày ngoài đời, đầy rẫy tham sân si, ngược xuôi xuôi ngược, khó thuận chiều xuôi gió với nhau, do đó, chúng sanh được khuyên bảo, cứ theo y pháp, lấy kham nhẫn, khiêm cung mà hành xử đối nhân xử thế.
 
Trong cuộc sống xô bồ, người trái ý nhau cũng nhiều, người thuận ý nhau cũng khó. Thói lề nhân sinh cứ kể ra thì có nhiều loại người khác nhau, thầy và y pháp luôn nhắc nhở phật tử tùy theo căn cơ tương báo nghiệp duyên mà hành xử đối đãi. Nhưng dù hành xử theo cách nào, thì cũng nên căn cứ trên chủng tử tốt lành nhứt của một con người, một con người đang được làm người trong hiện tại là họ có, đã có một chủng tử nguyên nhân tốt lành, dù nhỏ bé, vẫn tồn tại, thị hiện, dù trong một quá khứ rất xa xôi nào đó.
 
Thêm nữa, điều cốt yếu, ta luôn phải bảo trọng gìn giữ thân thể khỏe mạnh. Thân thể khỏe mạnh. Thân thể khỏe mạnh, tâm trí sáng suốt, có trí tuệ. Thân và tâm song hành khỏe mạnh, hành giả mới hội đủ sức lực để học tập đạo pháp và tu tập giải thoát được cho mình và cho người.
 
Khi tâm trí và cơ thể sáng suốt, hành giả dễ điều phục cân đối hóa giải tham sân si. Điều phục an bình tiểu vũ trụ là điều phải làm trước, sau đó mới có thể nhìn ra cảnh quang đại vũ trụ bao bọc xung quanh. Thầy Tâm Đức luôn rao giảng:
 
Cảnh bình thì tâm sẽ bình
Tâm bình thì cảnh sẽ bình
 
Trong hoàn cảnh, cảnh không bình, mà tâm bình, là bạn tu tập đã tiến bộ.
 
Ngay khi còn trẻ, còn khỏe, thầy khuyên rằng phải siêng năng và tụ tập, vì trên con đường luân hồi vòng vo dài vô tận, không biết lúc nào đó sẽ có những chướng ngại va vấp phải, việc tu thân học pháp vốn là trọng yếu và phải năng động chuyên cần. Không giãi đãi. Trên con đường lữ hành vòng vo của luân hồi nghiệp chướng, hành giả có cơ man là bạn đồng hành.
 
Họ cùng ta đi chung và đứng chung trên cầu sinh tử. Thầy dạy hành giả nên đối đãi và sống với họ bằng tâm yêu thương của bồ tát, vì dù sao không bằng bồ tát, cũng nên cố gắng tối đa, khi cho người cũng là cho mình cũng là cho người khác vậy.
 
Trong va chạm của cuộc sống, tiểu vũ trụ biến đổi luôn và biến đổi không lường, vì mỗi chúng sanh tánh ý khác nhau, y vậy, các tiểu vũ trụ trong ta bà thế giới là cơ man khác biệt. Cuộc sống đời đầy lo toan và tranh cãi. Hành giả vất vả đối phó với nhiều hành giả khác nhau đại loại như:
 
Có người có tâm ý và lời nói đều thanh tịnh.
 
Có người tâm ý thanh tịnh mà khẩu hành không đẹp.
 
Có người khẩu hành đẹp mà tâm ý xấu
 
Có người lời nói, ý nghĩ và việc làm đều không đẹp, nhưng thỉnh thoảng tâm họ hé mở rộng, có ít nhiều tịnh tín, dễ thương.
 
Có người ý nghĩ luôn xấu, lời nói luôn xấu, không có môt lúc nào, một chút gì dễ thương, mà xã hội gọi là kiểu người hết thuốc chữa… nhưng vẫn có thể chữa được, vì họ vẫn đang là một con người.
 
Vậy là cá nhân ta, đối diện, sống chung, tranh luận với những kẻ đồng hành khác biệt làm sao cho ổn? Thưa là chúng ta luôn luôn song hành với những bạn đồng hành khác ý, bạn bè, anh em, vợ chồng. Mỗi cá nhân là một biệt lập, họ không thể giống ta, ta cũng không thể theo ý họ… mọi người sống bên nhau, không thể luôn phải giống nhau, trừ kiểu bạn mua một robot và lập trình nó, lại là chuyện khác xa. Không nói tới.
 
Trong trường hợp thông thường, khi khác ý, y pháp gợi ý phải bình tĩnh, định tĩnh để trở vô chánh niệm, để chế tác các năng lượng bình an, bình an cho mình và luôn cả cho người.
 
Khi xưa, phật tổ đi giảng pháp độ sinh, ngài vượt qua rong ruổi từ 8 đến 16 quốc gia dọc theo bờ sông Hằng, ngài đi thuyết pháp và gặp cơ man là chướng duyên, chứng tỏ ai ai cũng có oan gia từ vô lượng kiếp, không phải một mình hành giả đây. Nhưng qua những khó khăn, phật tổ đã dậy chúng sanh biết bao nhiêu là bài học về lòng nhân ái và tình thương đại từ đại bi.
 
Trở lại vấn đề khác biệt, người ta có thể tranh luận. Nhưng là tranh luận trong sáng, không phải là cãi nhau, mà trong tinh thần, cả hai bên, phải biết hướng về bản thể nhị nguyên, không sân hận, không sỉ vả, chấp nhận lý lẽ vận hành có xấu có tốt xen kẻ nhau ở cạnh nhau.
 
Hiện trạng khó đối mặt chỉ được giải quyết trong tinh thần lắng nghequán chiếu, mỗi bên ráng đặt ta vào hoàn cảnh của người, vì ít có ai muốn sống ác.
 
Để tránh lòng sân hận có thể phát khởi, người ta cố gắng nhìn ra điểm tốt để tránh bế tắc. Như đi lượm một mảnh vải vụn, còn tốt, rơi bên đường, mang về giặc sạch, rồi ghép nối, may y phấn tảo! Được quá đi chớ! Rác thải còn làm tưới bón cho hoa hoa tươi nở rộ ven đường kia mà.
(thầy Nhất Hạnh)
 
… Khi xưa bên lối cỏ mòn,
Sư cô gánh nước lên non tưới vườn.
Ê a câu kệ vô thường,
Rớt theo giọt nước bên đường cỏ khô.
Hôm nay lối cũ tình cờ,
Thấy Như Lai trụ bên bờ cỏ xanh!
 
Người ta có thể tranh luận, bàn thảo khéo léo, không gây sân hận và tránh thù hằn vì oán thù nên cởi không nên cột.
 
Khi tranh luận, hành giả “không đa ngôn đa quá” và hạn chế không nói, không nghĩ về lỗi của người.
 
Một cuộc tranh luận khéo léo, chân thành, không sân hận, mà với tinh thần đắc tha tâm tha nhân sẽ cho ra những kinh nghiệm tốt hơn, những chất liệu sống vui đẹp hơn, bởi lẽ cuộc sống này là vận hành của một vũ trụ nhị nguyên, đêm có mặt trăng, ngày có mặt trời, có buổi sáng có buổi tối… có vui có buồn, có nhịp nhàng đưa đẩy, có thành công có thất bại. Sau một cuộc chiến, có vô số người chết và vẫn có vô số người tồn tại. Người bắn giết cứ bắn giết, người cứu cứ tận tâm cứu độ…
 
Vậy hành giả tranh luận với hành giả bạn, để tìm ra ý kiến hay, tốt, hợp lý và tuyệt đối không lấy sân hận làm nền. Chư phật dậy phật tử học, tu, tập quán chiếu theo quán tự tại bồ tát, lắng nghe để điều phục tiểu vũ trụ.
 
Chỉ khi nào tiểu vũ trụ được an hòa trong chánh niệm, may ra hành giả mới đủ lực để hồi hướng phước đức cho tha nhân.
 
Trải qua nhiều kiếp luân hồi, mọi chúng sanh đang làm người đều nhiều ít có căn lành. Nên chư bồ tát, phật Quán Thế Âm luôn lắng nghe tiếng gọi cứu độ của thế gian với tâm nguyện hải hà: chúng sanh vô biên thệ nguyện độ.
 
Ngày nay, toàn thế giới, rất nhiều nơi, các nước tân tiến họ hết chỗ nhốt tù nhân, họ đang rao để thuê đất ở một quê hương khác để có chỗ nuôi và giáo hóa tù nhân vì sau cùng, may thay, họ không ghét và trừ bỏ, họ dậy dỗ lại và cứu vớt, hóa độ, để mong có ngày phật, chúa hóa hữu duyên nhân.
 
Trong hiện tại, thế giới vô vàn rối loạn, để cầu an bình, mọi hành giả chúng ta hướng tâm về hạnh nguyện của đức Đại Hành Phổ Hiền Bồ Tát:
 
Tùy hỉ công đức tùy nguyện chúng sanh.
 
Nói chung cuộc,
 
Nếu mỗi hành giả tu, học, hiểu để siêng năng quán chiếu, tùy thuận chúng sanh, hai chiều hổ tương tốt đẹp, an hòa, để cố đi đến chỗ ta và người cùng giải thoát.
 
Chưa hẳn nói là được giải thoát khỏi luân hồi lục đạo vội vã mà chi, chỉ trước mắt là được giải thoát khỏi buồn giận, sân hận và thù nghịch, đầu mối của chiến tranh.
 
Thưa là: Cảnh bình thì tâm sẽ bình
Tâm bình thì cảnh sẽ bình
Và sau cùng tâm bình thì thế giới bình.
 
A Di Đà Phật
Mùa Vu Lan 2025
Chúc Thanh
 
Chúc Thanh thành kính tri ơn thầy Thích Tâm Đức
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Không nhớ từ bao giờ đã không còn ngồi xuống bàn trà, tay bốc miếng mứt hạt sen bỏ vô miệng, vị ngọt tươm ra không quá gắt như ăn miếng mứt bí, vị ngọt nhẹ, thanh, kích thích vị giác bởi hương sen quyện ngọt điệu đà, tới khi nhai cái hạt sen đã ấm ấm trong miệng nên không còn cứng cũng không quá mềm như khoai lang luộc. Độ dẻo của hạt sen khi đã sên mứt rất mê hoặc và cũng đâu có gì vội để nuốt đi cho mau, cứ ngậm mà nghe hương vị đất trời tinh khiết của hương sen xông lên khoang mũi làm cho người thưởng thức lâng lâng cảm giác xuân đã về. Có thể nói món gì có hạt sen góp mặt cũng ngon như món vịt tiềm có nhân bên trong là thịt bằm, nấm mèo, táo tàu, gia vị nhiều thứ, nhưng những hạt sen luôn khêu gợi những đôi đũa gắp vì hấp dẫn và ngon lạ miệng. Nhưng đã nhiều năm không ăn mứt hạt sen sao vẫn nhớ khá rõ hương vị độc đáo của hạt sen trong món ngọt ăn chơi ngày tết, hay món mặn ăn tiệc đều ngon.
Cậu Hà người Bắc di cư năm 1954, cậu di cư có một thân một mình khi còn trẻ, nên cậu cũng không có nhiều phương tiện được học hành nhiều. Khi lớn lên ở miền Nam, lối chừng 19, 20 tuổi khoảng năm 1965-1966, cậu từ giã học đường đăng lính, cậu đi lính Việt Nam Cộng Hòa ngành Biệt Động Quân. Sau chuyển qua Thám Báo. Cậu đóng quân như ở miền đồng ruộng, lúc bấy giờ còn loáng thoáng xa xa, ít dân cư, tiếp giáp một bên Đồng Ông Cộ, miệt Gò Vấp, Gia Định.
Chị nhớ lại, vào một buổi sáng ngày cuối tháng 1 năm 1973, khi Chị đi lấy bản tin ở bên Macv về cho AP, chị thấy sao hôm nay văn phòng đông thế. Ký giả của AP và cả của NBC News bên cạnh cũng chạy qua chạy lại, Chị nghe ông chánh văn phòng nói: Viêt Nam sắp ngưng bắn rồi, sắp hòa bình rồi…” Văn phòng Associated Press xôn xao, từ ông chánh văn phòng đến các ký giả, nhân viên của AP đều hứng khởi với cái tin “Nóng bỏng” này. Chị thấy các phóng viên của các hãng thông tấn, hãng truyền hình ngoại quốc chạy hối hả sang nhau và chạy qua cả đài phát thanh Quân Đội Việt Nam để cập nhật tin tức viết bài…
Chị đi bằng xe hàng. Là dân Đà Lạt gốc Huế nên chị gọi xe đò là “xe hàng”. Đi xe hàng, tức là xe đò, là xe chở người và cả hàng chứ không chở riêng hàng. Tiếng Việt hay như vậy đó! Đến Gò Công rồi đi xe lam vào Đồng Nguơn. Ấp Đồng Nguơn. Không phải đây là lần đầu tiên chị được thấy cảnh đồng quê. Đồng quê miền nam hầu như đâu đâu cũng giống nhau. Nhưng có đi nhiều mới thấy mỗi nơi có một chút khác. Phải thế không? Hay chính là cảm giác của chị mỗi lần một khác?
Tôi ước mơ có một ngày nào đó, khi thanh bình thật sự trở về trên nước VN, khi chính thể CS hoàn toàn tan rã, khi con người công chính trở lại làm nền tảng trong xã hội mới, chúng ta sẽ trở về, những ngưới bạn từ thời xa xưa, cùng nhau làm lại một bữa tiệc Tất Niên, mời vong linh các thầy, các bạn, các anh em đồng đội đã chết trong khói lửa chinh chiến, trong các biến cố tang thương của đất nước, trong các trại tù, trên biển…cùng nhập tiệc. Kẻ đang sống cùng người thiên cổ bên cạnh nhau hoài niệm đến một miền thùy dương ngọt ngào nhân tính, một ngôi trường thân yêu giàu truyền thống giáo dục và y đức, một thành phố mến yêu thơ mộng. Để nghe những người quá cố tâm sự về cái chết oan khiên của mình. Được như vậy, hương hồn các vị đó sẽ sớm được siêu thoát và vĩnh viễn an nghỉ chốn nghìn thu. Và chúng ta đây giảm khắc khoải đau thương…
Tôi đã có bốn cái Tết trong trại Panatnikhom và Sikiew, Thailand. Tết đầu tiên thật nhiều kỷ niệm và bất ngờ, vì lúc đó chúng tôi vừa nhập trại trong khi còn hơn một tuần nữa là Tết. Tôi và ba cô bạn đi chung chưa kịp gửi thư cho thân nhân ở nước ngoài để ca bài ca “xin tiền”. Ai lo bận bịu đón Tết thì lo, còn chúng tôi thì lo đi mượn tiền để mua vài vật dụng cần thiết như tấm trải nhựa, tre nứa, dây nilon để làm “nhà” (phải “an cư” mới “lập nghiệp” tỵ nạn được chớ).Khoảng một tuần trước Tết, có một nhóm mấy thanh niên đến thăm vì nghe nói chúng tôi là dân Gò Vấp, nên muốn nhận “đồng hương đồng khói”. Họ là những người trẻ như chúng tôi, nên câu chuyện mau chóng trở nên thân mật và rôm rả
Hỏi thăm ông Hai bán hoa lay-ơn gốc Bình Kiến, nhiều người ngơ ngác hỏi nhau. Tôi lại rảo qua thêm mấy vòng chợ hoa, cũng vừa đi tìm ông Hai, cũng vừa ngắm hoa và ngắm những chậu bonsai bày bán cuối năm, cũng tìm lại mình của gần 20 năm trước, năm nào cũng cứ vào những ngày này, tôi theo ba tôi hóng gió đón sương không hề chợp mắt cùng gian hàng cây kiểng rất bề thế của ba ở đây.
Có lẽ những rộn ràng, hân hoan nhất trong năm không phải là "ba ngày tết", mà là những ngày cận tết. Bắt đầu vào ngày 23 tháng chạp, tối đưa ông Táo về trời. Tất cả mọi sinh hoạt đều hướng về việc chuẩn bị để đón một mùa xuân mới, chào đón nguyên đán và mấy ngày xuân trước mặt. Lúc nhỏ là mùi vải thơm của bộ đồ mới, mùi gạo nếp ngâm cho nồi bánh và hương thơm ngào ngạt cho sàng phơi mứt dừa, mứt bí, mứt gừng ngoài sân. Những đêm ngủ gà ngủ gật ngồi canh bên nồi bánh tét cùng với má, với gia đình xúm quanh. Mùi bếp lửa, mùi khói hương, mùi áo mới lan tỏa của tuổi thơ ngan ngát những ngày xa...
Người ta được nuôi lớn không chỉ bằng thức ăn, mà còn ở lời ru, tiếng hát, và những câu chuyện kể. Chú bé cháu của bà thích được bà ôm vác, gối đầu lên vai bà. Có khi bà mở nhạc từ chiếc nôi cho chú nghe thay cho lời hát, chiếc nôi chú bé đã nằm khi mới lọt lòng mẹ. Có khi bà hát. Bà không ru à ơi, nhưng âm điệu dân gian len vào trong từng lời hát. Chú bé mãi rồi ghiền nghe giọng hát của bà.
Lóng rày tôi hay tẩn mẩn viết về những hồi tưởng tuổi thơ, nhất là những côn trùng ngày xa xưa đó như chuồn chuồn, bươm bướm, ve sầu, dế mèn…Nhiều lúc ngồi nghĩ lẩn thẩn: tại sao vậy? Chắc đó là tâm trạng của người tuổi sắp hết đếm số, tiếc nuối những khi còn cắp sách tới trường. Cắp sách tới trường không phải là chuyện vui nhưng tuổi học trò thì vui thật. Lúc nào, khi nào, chỗ nào cũng toàn thấy chuyện vui chơi. Bạn chơi là người nhưng nhiều lúc là những côn trùng quanh quẩn bên người. Một ông bạn mới gặp nhướng mắt hỏi tôi viết về những bạn chơi nhiều hơn hai chân nhưng chưa thấy nhắc tới bạn của ông ấy. Đó là bọ ngựa. Ông này thuộc loại rắn mắt. Tôi không chung tuổi thơ với ông nhưng chắc ông cũng thuộc loại phá làng phá xóm. Ông kể chuyện ăn me chua trước mấy ông lính thổi kèn trong hàng ngũ khiến mấy ông thợ kèn này chảy nước miếng thổi không được. Tôi thuộc loại hiền nên không có bạn không hiền như bọ ngựa. Ông ta thì khoái bọ ngựa.
“Mày có vợ hồi nào vậy?” chưa kịp chào, mẹ đã ném ra câu hỏi bất ngờ. Tôi lặng thinh. Cục nghẹn trong cổ họng. Tiếng mẹ đã khàn nhưng nghe vẫn quen, vẫn gần gũi, nhưng đặm chút ngạc nhiên và thấp thoáng chút phiền muộn. Hệt như lần hỏi tôi mười mấy năm trước rằng Sao con trốn học. Đường dây điện thoại chợt kêu ù ù, như thể có máy bay hay xe vận tải cơ giới hạng nặng chạy qua chỗ mẹ đứng. Cũng có thể tại tai tôi ù. Tôi cũng không chắc lắm. Giọng nói mẹ chìm vào khối tạp âm hỗn độn. Mẹ lặp lại câu hỏi trong tiếng động cơ rì rầm. Rồi tất cả im vắng bất ngờ. “Hở con?” Mẹ nói.
Bê, con trai của Mẹ, đã theo Mẹ đến giảng đường từ thuở còn trong bụng Mẹ. Suốt thời gian đại học của Mẹ, Bê có nhiều đóng góp khác nhau theo từng thời kỳ. Khi Mẹ làm bài kiểm tra môn Đầu Tư và Tài Chính trong lục cá nguyệt đầu tiên, Bê mới ba tháng tuổi. Mẹ nhẩm tính, bài thi một tiếng rưỡi, đi về từ nhà đến trường thêm một tiếng rưỡi. Như vậy, Bê phải xa Mẹ ít nhất ba tiếng đồng hồ. Mẹ biết tính Bê, mỗi hai tiếng đồng hồ Bê oe oe đòi bú sữa Mẹ. Bê xấu đói lắm, đòi mà không được, Bê nhăn nhó um sùm. Ngày hôm đó, dì Thành đến giữ Bê. Dì Thành rất hồi hộp. Dì chưa có em bé, chẳng biết phải làm sao cho đúng ý Bê. Mẹ thi xong, phóng ra xe về nhà. Mẹ bắt đầu sốt ruột. Mẹ xa Bê đã hơn ba tiếng đồng hồ. Giờ này Bê chắc Bê đã thức giấc. Hy vọng Bê chịu khó nhâm nhi món trà thảo dược cho trẻ sơ sinh trong khi chờ Mẹ về. Thời đó chưa có điện thoại di động. Bởi vậy, có lo cũng để bụng, chứ Mẹ chẳng biết làm sao. Mẹ ba chân bốn cẳng chạy ba tầng lầu. Vừa đến cửa đã nghe tiếng Bê khóc ngằn ngặt.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.