Hôm nay,  

Dây Phơi Mùa Hạ Cũ

30/05/202500:00:00(Xem: 708)

mua ha cu
Minh họa Đinh Trường Chinh

để nhớ Western Ontario University
 
Ở xứ ấy, người ta ngủ đến trưa mới dậy. Chàng nhớ thế khi nghĩ về mùa xuân, mùa hạ, mùa thu khi còn bé, mỗi lần nghĩ thế, đều lấy làm ngạc nhiên, và lấy làm ngạc nhiên về sự ngạc nhiên ấy. Thế mà giữa một thành phố châu Âu, chàng lại gặp chúng. Trên nền tường trắng và mặt biển xanh, giữa những màu xanh và trắng, chỉ hai màu ấy, đôi khi xanh và đỏ, chàng gặp lại chúng, hồ hởi, tưng bừng, nó và chàng như  hai thằng bạn thời mặc quần xà lỏn nay gặp nhau. Sau này đi nhiều nơi, cũng lại gặp nữa, nhưng chúng bơ vơ lẩn lút giữa những cao ốc sang trọng và các dãy nhà xám xịt người nghèo. Chỉ riêng một thành phố Địa trung hải đó, ở đó những dây quần áo tung bay rực rỡ trong nắng chói không chút e lệ. Chàng đứng, dựa lưng vào bờ tường có cây lựu ra trái đỏ, bên một con đường lên dốc có những chiếc xe tải chạy qua làm bụi bay mù, nhìn ngắm sợi dây dài, căng những chiếc áo đầm, sơ mi đàn ông, đủ thứ trang phục, những đôi vớ bay phấp phới, giày trẻ em lủng lẳng, mũ, nón. Trong thành phố của chúng ta, mọi người đều dùng máy giặt và sấy. Ngay cả những ngày đẹp trời nhất người ta cũng không nghĩ đến chuyện đem áo quần ra phơi. Vậy chàng đứng đó giữa buổi trưa nắng gắt, gió rì rào, nhìn thấy quê nhà. Chàng đếm kỹ từ đầu đến cuối dây phơi, bằng sợi tơ đồng, có ba mươi hai thứ, quần áo đàn bà đàn ông và trẻ con lẫn lộn. Ngày trước không phải thế, cái nào ra cái đó. Mẹ chàng có một cái sân phơi nhỏ, sau bếp, gần chuồng gà, dây phơi đàn ông và dây phơi đàn bà tách biệt. Nhiệm vụ của chàng lúc còn bé là mỗi khi trời sắp mưa, mà ở xứ ấy hay có mưa giông, chúng ào ào, rào rào, ngắn vui vẻ, kịch liệt, như cuộc làm tình của những tình nhân quen biết đã lâu, nhàm nhưng không chán, ít thơ mộng, nhiệm vụ của chàng là mau chân mau cẳng chạy về mang áo quần vào. Có một ngoại lệ: đứa trẻ không bao giờ thấy quần lót đàn bà đâu cả. Bây giờ trong thành phố lớn, chỉ những người nghèo mới phơi quần áo. Đi qua những chung cư của họ, bạn nhìn thấy chúng phất phơ các cửa sổ như những ngọn cờ của một lý thuyết đấu tranh đòi bình đẳng xã hội. Chúng ta nói về môi trường, ký vào các kiến nghị bảo vệ súc vật, bảo vệ rừng và biển, nhưng chúng ta thản nhiên ném áo quần vào máy giặt sấy. Con người ngày càng muốn được đẩy lên cao hơn trong các vị trí đẳng cấp. Bây giờ không phải chỉ là sự đói rách, bây giờ là đẳng cấp, tiền bạc, lòng ham muốn, mới làm con người đau khổ, và không có sự đau khổ nào nhẹ nhõm hơn sự đau khổ nào. Đó là những ý tưởng vẩn vơ của chàng khi đứng trong buổi trưa cuối vườn cái xóm ngoại ô thành phố London, Canada, nơi chàng ở trọ nhà của một nhạc sĩ, bạn vong niên của một anh bạn. Ông nhạc sĩ này còn có một căn nhà nhỏ khác cho thuê, bên cạnh. Chàng nhìn người hàng xóm mới đến, đang tất bật mang áo quần ra phơi sau bụi cây sơn trà, cô ta mới dọn về đây và chưa kịp sắm cho mình một cái dây phơi, chàng thầm đoán. Cô mang những áo, váy, quần jeans, giày và vớ treo lên bụi cây làm những cành lá trĩu xuống. Buổi sáng gấn trưa hôm sau, đi làm về, vì làm việc ca nửa đêm, chàng nhìn thấy nó. Nó nằm trên cỏ phía vườn của chàng như một chiếc lá rụng. Chàng không biết cô gái tên gì, ở với ai, hay một mình. Chàng tới gần, chăm chú nhìn thật kỹ và suy nghĩ xem phải làm gì với nó. Không phải là cây trâm cài tóc của cô Kiều. Không. Chàng đưa tay sờ thử, nó ấm, đen, mượt như nhung, kích thước bằng bàn tay, còn hơi ẩm ướt vì nằm khuất hẳn trong bóng râm. Chàng kéo nó ra xa ngoài ánh nắng. Vụng về, chàng bị cành cây bật lên đâm xước vào tay. Những cuộc đổi dời đã xô đẩy họ đi mỗi lúc một xa, quá khứ chỉ còn là tưởng niệm nghiêm trang. Chỉ là cuộc gặp gỡ ngắn. Rồi sau đó chàng chuyển nhà. Lẽ ra chàng đã có thể làm quen với người hàng xóm mới. Nhưng không. Cuộc trò chuyện bên rào. Cuộc trò chuyện vui vẻ nhưng khó khăn, ngập ngừng. Chiếc quần lót gói trong giấy báo, nữa hững hờ nữa kín đáo, vào lúc chiều tối, hình như vào lúc có một ngôi sao mới mọc, rõ to. Ôi chao chỉ có thế thôi sao. Lẽ ra hai người đã có thể quen nhau. Họ đã có thể đi xa hơn nữa. Mảnh vải nhỏ xíu ấy đã khô từ bao mùa hạ cũ. Mỗi khi tình cờ đứng nhìn sợi dây phơi quần áo, mà chúng bay phấp phới như những mảnh cắt, cắt ra từ những ngày tháng đẫm mặt trời, chàng tưởng rằng chỉ cần trở lại đó, đứng bên hàng rào, sau bụi sơn trà kia, thì tự khắc chiếc lá ấy lại trở về, nửa khô nửa ướt, và nghe lại được giọng nói của nàng vào lúc đó. Giọng nói ấy không có gì đặt biệt, nhưng ngân nga.
- Chời ơi.

Đó là câu buột miệng của nàng khi mở gói giấy báo kia ra.

Nguyễn Đức Tùng
  

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Không nhớ từ bao giờ đã không còn ngồi xuống bàn trà, tay bốc miếng mứt hạt sen bỏ vô miệng, vị ngọt tươm ra không quá gắt như ăn miếng mứt bí, vị ngọt nhẹ, thanh, kích thích vị giác bởi hương sen quyện ngọt điệu đà, tới khi nhai cái hạt sen đã ấm ấm trong miệng nên không còn cứng cũng không quá mềm như khoai lang luộc. Độ dẻo của hạt sen khi đã sên mứt rất mê hoặc và cũng đâu có gì vội để nuốt đi cho mau, cứ ngậm mà nghe hương vị đất trời tinh khiết của hương sen xông lên khoang mũi làm cho người thưởng thức lâng lâng cảm giác xuân đã về. Có thể nói món gì có hạt sen góp mặt cũng ngon như món vịt tiềm có nhân bên trong là thịt bằm, nấm mèo, táo tàu, gia vị nhiều thứ, nhưng những hạt sen luôn khêu gợi những đôi đũa gắp vì hấp dẫn và ngon lạ miệng. Nhưng đã nhiều năm không ăn mứt hạt sen sao vẫn nhớ khá rõ hương vị độc đáo của hạt sen trong món ngọt ăn chơi ngày tết, hay món mặn ăn tiệc đều ngon.
Cậu Hà người Bắc di cư năm 1954, cậu di cư có một thân một mình khi còn trẻ, nên cậu cũng không có nhiều phương tiện được học hành nhiều. Khi lớn lên ở miền Nam, lối chừng 19, 20 tuổi khoảng năm 1965-1966, cậu từ giã học đường đăng lính, cậu đi lính Việt Nam Cộng Hòa ngành Biệt Động Quân. Sau chuyển qua Thám Báo. Cậu đóng quân như ở miền đồng ruộng, lúc bấy giờ còn loáng thoáng xa xa, ít dân cư, tiếp giáp một bên Đồng Ông Cộ, miệt Gò Vấp, Gia Định.
Chị nhớ lại, vào một buổi sáng ngày cuối tháng 1 năm 1973, khi Chị đi lấy bản tin ở bên Macv về cho AP, chị thấy sao hôm nay văn phòng đông thế. Ký giả của AP và cả của NBC News bên cạnh cũng chạy qua chạy lại, Chị nghe ông chánh văn phòng nói: Viêt Nam sắp ngưng bắn rồi, sắp hòa bình rồi…” Văn phòng Associated Press xôn xao, từ ông chánh văn phòng đến các ký giả, nhân viên của AP đều hứng khởi với cái tin “Nóng bỏng” này. Chị thấy các phóng viên của các hãng thông tấn, hãng truyền hình ngoại quốc chạy hối hả sang nhau và chạy qua cả đài phát thanh Quân Đội Việt Nam để cập nhật tin tức viết bài…
Chị đi bằng xe hàng. Là dân Đà Lạt gốc Huế nên chị gọi xe đò là “xe hàng”. Đi xe hàng, tức là xe đò, là xe chở người và cả hàng chứ không chở riêng hàng. Tiếng Việt hay như vậy đó! Đến Gò Công rồi đi xe lam vào Đồng Nguơn. Ấp Đồng Nguơn. Không phải đây là lần đầu tiên chị được thấy cảnh đồng quê. Đồng quê miền nam hầu như đâu đâu cũng giống nhau. Nhưng có đi nhiều mới thấy mỗi nơi có một chút khác. Phải thế không? Hay chính là cảm giác của chị mỗi lần một khác?
Tôi ước mơ có một ngày nào đó, khi thanh bình thật sự trở về trên nước VN, khi chính thể CS hoàn toàn tan rã, khi con người công chính trở lại làm nền tảng trong xã hội mới, chúng ta sẽ trở về, những ngưới bạn từ thời xa xưa, cùng nhau làm lại một bữa tiệc Tất Niên, mời vong linh các thầy, các bạn, các anh em đồng đội đã chết trong khói lửa chinh chiến, trong các biến cố tang thương của đất nước, trong các trại tù, trên biển…cùng nhập tiệc. Kẻ đang sống cùng người thiên cổ bên cạnh nhau hoài niệm đến một miền thùy dương ngọt ngào nhân tính, một ngôi trường thân yêu giàu truyền thống giáo dục và y đức, một thành phố mến yêu thơ mộng. Để nghe những người quá cố tâm sự về cái chết oan khiên của mình. Được như vậy, hương hồn các vị đó sẽ sớm được siêu thoát và vĩnh viễn an nghỉ chốn nghìn thu. Và chúng ta đây giảm khắc khoải đau thương…
Tôi đã có bốn cái Tết trong trại Panatnikhom và Sikiew, Thailand. Tết đầu tiên thật nhiều kỷ niệm và bất ngờ, vì lúc đó chúng tôi vừa nhập trại trong khi còn hơn một tuần nữa là Tết. Tôi và ba cô bạn đi chung chưa kịp gửi thư cho thân nhân ở nước ngoài để ca bài ca “xin tiền”. Ai lo bận bịu đón Tết thì lo, còn chúng tôi thì lo đi mượn tiền để mua vài vật dụng cần thiết như tấm trải nhựa, tre nứa, dây nilon để làm “nhà” (phải “an cư” mới “lập nghiệp” tỵ nạn được chớ).Khoảng một tuần trước Tết, có một nhóm mấy thanh niên đến thăm vì nghe nói chúng tôi là dân Gò Vấp, nên muốn nhận “đồng hương đồng khói”. Họ là những người trẻ như chúng tôi, nên câu chuyện mau chóng trở nên thân mật và rôm rả
Hỏi thăm ông Hai bán hoa lay-ơn gốc Bình Kiến, nhiều người ngơ ngác hỏi nhau. Tôi lại rảo qua thêm mấy vòng chợ hoa, cũng vừa đi tìm ông Hai, cũng vừa ngắm hoa và ngắm những chậu bonsai bày bán cuối năm, cũng tìm lại mình của gần 20 năm trước, năm nào cũng cứ vào những ngày này, tôi theo ba tôi hóng gió đón sương không hề chợp mắt cùng gian hàng cây kiểng rất bề thế của ba ở đây.
Có lẽ những rộn ràng, hân hoan nhất trong năm không phải là "ba ngày tết", mà là những ngày cận tết. Bắt đầu vào ngày 23 tháng chạp, tối đưa ông Táo về trời. Tất cả mọi sinh hoạt đều hướng về việc chuẩn bị để đón một mùa xuân mới, chào đón nguyên đán và mấy ngày xuân trước mặt. Lúc nhỏ là mùi vải thơm của bộ đồ mới, mùi gạo nếp ngâm cho nồi bánh và hương thơm ngào ngạt cho sàng phơi mứt dừa, mứt bí, mứt gừng ngoài sân. Những đêm ngủ gà ngủ gật ngồi canh bên nồi bánh tét cùng với má, với gia đình xúm quanh. Mùi bếp lửa, mùi khói hương, mùi áo mới lan tỏa của tuổi thơ ngan ngát những ngày xa...
Người ta được nuôi lớn không chỉ bằng thức ăn, mà còn ở lời ru, tiếng hát, và những câu chuyện kể. Chú bé cháu của bà thích được bà ôm vác, gối đầu lên vai bà. Có khi bà mở nhạc từ chiếc nôi cho chú nghe thay cho lời hát, chiếc nôi chú bé đã nằm khi mới lọt lòng mẹ. Có khi bà hát. Bà không ru à ơi, nhưng âm điệu dân gian len vào trong từng lời hát. Chú bé mãi rồi ghiền nghe giọng hát của bà.
Lóng rày tôi hay tẩn mẩn viết về những hồi tưởng tuổi thơ, nhất là những côn trùng ngày xa xưa đó như chuồn chuồn, bươm bướm, ve sầu, dế mèn…Nhiều lúc ngồi nghĩ lẩn thẩn: tại sao vậy? Chắc đó là tâm trạng của người tuổi sắp hết đếm số, tiếc nuối những khi còn cắp sách tới trường. Cắp sách tới trường không phải là chuyện vui nhưng tuổi học trò thì vui thật. Lúc nào, khi nào, chỗ nào cũng toàn thấy chuyện vui chơi. Bạn chơi là người nhưng nhiều lúc là những côn trùng quanh quẩn bên người. Một ông bạn mới gặp nhướng mắt hỏi tôi viết về những bạn chơi nhiều hơn hai chân nhưng chưa thấy nhắc tới bạn của ông ấy. Đó là bọ ngựa. Ông này thuộc loại rắn mắt. Tôi không chung tuổi thơ với ông nhưng chắc ông cũng thuộc loại phá làng phá xóm. Ông kể chuyện ăn me chua trước mấy ông lính thổi kèn trong hàng ngũ khiến mấy ông thợ kèn này chảy nước miếng thổi không được. Tôi thuộc loại hiền nên không có bạn không hiền như bọ ngựa. Ông ta thì khoái bọ ngựa.
“Mày có vợ hồi nào vậy?” chưa kịp chào, mẹ đã ném ra câu hỏi bất ngờ. Tôi lặng thinh. Cục nghẹn trong cổ họng. Tiếng mẹ đã khàn nhưng nghe vẫn quen, vẫn gần gũi, nhưng đặm chút ngạc nhiên và thấp thoáng chút phiền muộn. Hệt như lần hỏi tôi mười mấy năm trước rằng Sao con trốn học. Đường dây điện thoại chợt kêu ù ù, như thể có máy bay hay xe vận tải cơ giới hạng nặng chạy qua chỗ mẹ đứng. Cũng có thể tại tai tôi ù. Tôi cũng không chắc lắm. Giọng nói mẹ chìm vào khối tạp âm hỗn độn. Mẹ lặp lại câu hỏi trong tiếng động cơ rì rầm. Rồi tất cả im vắng bất ngờ. “Hở con?” Mẹ nói.
Bê, con trai của Mẹ, đã theo Mẹ đến giảng đường từ thuở còn trong bụng Mẹ. Suốt thời gian đại học của Mẹ, Bê có nhiều đóng góp khác nhau theo từng thời kỳ. Khi Mẹ làm bài kiểm tra môn Đầu Tư và Tài Chính trong lục cá nguyệt đầu tiên, Bê mới ba tháng tuổi. Mẹ nhẩm tính, bài thi một tiếng rưỡi, đi về từ nhà đến trường thêm một tiếng rưỡi. Như vậy, Bê phải xa Mẹ ít nhất ba tiếng đồng hồ. Mẹ biết tính Bê, mỗi hai tiếng đồng hồ Bê oe oe đòi bú sữa Mẹ. Bê xấu đói lắm, đòi mà không được, Bê nhăn nhó um sùm. Ngày hôm đó, dì Thành đến giữ Bê. Dì Thành rất hồi hộp. Dì chưa có em bé, chẳng biết phải làm sao cho đúng ý Bê. Mẹ thi xong, phóng ra xe về nhà. Mẹ bắt đầu sốt ruột. Mẹ xa Bê đã hơn ba tiếng đồng hồ. Giờ này Bê chắc Bê đã thức giấc. Hy vọng Bê chịu khó nhâm nhi món trà thảo dược cho trẻ sơ sinh trong khi chờ Mẹ về. Thời đó chưa có điện thoại di động. Bởi vậy, có lo cũng để bụng, chứ Mẹ chẳng biết làm sao. Mẹ ba chân bốn cẳng chạy ba tầng lầu. Vừa đến cửa đã nghe tiếng Bê khóc ngằn ngặt.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.