Hôm nay,  

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

06/06/202500:00:00(Xem: 335)
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?”
Thơ Kiều của cụ Nguyễn Du
 
Có một lần đó thầy kể lại chuyện rằng, thầy có một phật tử chăm chỉ tu học, đã hơn 10 năm, theo thầy đi khắp nơi, qua nhiều đạo tràng, chuyên tu chuyên nghe rất thành kính. Nhưng có một lần đó phật tử đứng gần thầy, nghe thầy giảng về phát bồ đề tâm, sau thầy có đặt một vài câu hỏi kiểm tra coi thính chúng hiểu bài tới đâu? Cô vội xua xua tay, “bạch thầy, những điều thầy giảng, con hiểu hết, con hiểu hết mà. Con nhớ nhập tâm. Nhưng đừng, thầy đừng có hỏi, bị là con không biết trả lời làm sao đâu.” Có lẽ là cô hiểu ý mà cô chưa sẵn sàng hệ thống sắp xếp thứ tự lại các ý tưởng.
 
Và may thay có một người bạn đạo, ngồi khít bên đỡ lời, “đúng vậy, nhất thiết chúng sanh giai hữu phật tánh,” điều hoan hỉ là mọi người đã chăm chú nghe, đã hiểu, đã hiểu lời thầy giảng, nhưng đa phần chúng mình không thể nói lại ngay những lờ giảng dậy, vì nói được thì phải nói rất đúng, rất hay như chánh pháp, còn không, hãy im lặng như chánh pháp. A Di Đà Phật!
 
Có người nói hay (hay viết hay cũng thế) như ông nhà văn Thanh Tịnh thì nhắc tới, ai cũng biết câu văn thân thuộc của ông: “… hàng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm mênh mang của tuổi tựu trường… buổi mai hôm ấy…”
 
Y vậy, Anatole France, của Pháp, vẫn kể rằng: «hàng năm, khi bầu trời chập chùng le ciel agité của mùa thu và những bữa cơm chiều đầu tiên dưới ngọn đèn và những lá cây vàng úa trên cành cây rung động, lại gợi lại cho tôi những gì?”
 
Đó là hình ảnh một cậu bé lưng đeo cặp sách, vừa đi vừa nhảy những bước chân sáo băng ngang vườn Lục Xâm Bảo… vào những lúc đẹp nhứt là lúc những chiếc lá vàng rơi lả tả trên vai những pho tượng trắng trong vườn… vâng đó là hình ảnh của tôi, của chính tôi 25 năm trước…
 
Còn ngược lại, cũng có những người nói nhiều, nói lớn, mà đố có ai bên cạnh hiểu được họ muốn nói gì, họ rất gần và rất xa nhau. Người ta kể rằng mấy ông giáo sư đại học Harvard nói lại trong một lớp học, học trò ông đang tranh luận, bàn cãi về một vấn đề. Thì các sinh viên của ông ăn nói rất lưu loát và tốt giọng, nghĩa là anh này nói thiệt lớn, đối diện một cô bạn cũng nói thao thao không ngừng nghỉ, à là họ tranh luận rất logique. Nhưng họ càng nói nhiều, càng không hiểu nhau lắm vì họ ít để ý đến lời của nhau. Họ đứng rất gần, nói rất lớn giọng, mà tâm ý họ càng xa nhau… rồi kết luận không khả quan. Y như vậy, cô A kể, ai cũng thấy, trên một chuyến xe métro, mọi người ngồi kế bên nhau, mà họ rất xa nhau, vì là mỗi người đang coi một cái tablette hay Ipad, theo dõi những câu chuyện riêng tư của mỗi người... đến nỗi tai nạn xẩy ra với người này, người kia ít có hay, để trợ giúp nhau kịp thời. Tựu trung, nói nhiều quá, hay không nói, đều không tốt.
 
Một nhà văn Thổ Nhĩ Kỳ ví thế giới hôm nay hơi giống một bệnh viện tâm thần, khi một người hảo tâm muốn vào vấn an những bệnh nhân, họ đối thoại và nhận thấy những câu trả lời đối đáp qua lại của đa số bệnh nhân đều có lý, đều có một hàm ý và không phải là vu vơ, không phải là điên loạn mà trả lời lung tung, nhưng, nếu ráp nối những câu trả lời đó lại, người ta không thể hiểu họ muốn nói gì?
 
Cũng tương tự như thế giới từ đông sang tây, có rất nhiều doanh nhân, danh nhân hào nhoáng, tài giỏi, họ đưa trình, thể hiện các nền văn minh hiện đại, với tất cả nghệ thuật khôn khéo để hóa trang, để mua bán chính trị và quyền lợi làm đảo lộn đa phần nền văn minh và đạo đức nhân bản gây thảm họa không ngừng cho nhân loại.
 
Điển hình như đại dịch covid vừa qua. Bao tang thương, bao khốn khổ khắp nơi nơi, rồi tất cả cứ đổ tội đời là vô thường.
 
Mà đời là vô thường thiệt, vì nhân loại đang chịu trận, chứ có làm gì chống đối lại được những kẻ nắm quyền, nhiều thế lực... nhiều ảnh hưởng và dã man. Ở một khía cạnh khác, về tâm linh, đời là vô thường.
 
Như chuyện kể sư cô Diệu Trí ở chùa Tâm Ấn, một miền hẻo lánh ở Đại Từ, vùng phụ cận xa lắc xa lơ Hà Nội.
 
Sư cô kể rằng, khi đại dịch covid vừa tạm yên yên, chùa tổ chức lễ cúng vong, bái sám và xin hồi hướng công phu cho các vong linh quanh vùng vừa quá vãng. Thì có một buổi xế trưa vào chiều, chùa có hai người khách xin ghi tên những người thân quen qua đời trong nạn covid, đặng xin độ niệm cho họ siêu thoát.
Một người thì ghi một cái danh sách tên tuổi pháp danh người thân dài thiệt dài, cả một trang giấy, sư cô đặt câu hỏi:
 
Thí chủ cầu cho nhiều người thế, chẳng hay là thí chủ phát tâm xin cúng cho cả gia đình toàn thể nội ngoại, cả bà con bạn bè, hay cả khu phố sao? Ừ thì đa tạ tâm bồ đề của thí chủ.
 
Bạch sư cô là, nói nào ngay, trước đây ngoài gia đình thân quyến, con lỡ cãi lộn, gây lộn với tụi họ nhiều lắm, nay con buồn, con nghĩ con phải xin cúng, cầu hồng ân tam bảo gia hộ cho chúng họ siêu thoát.
 
A Di Đà Phật.
 
Xong sư cô coi danh sách xin vong của người khách thứ hai, trong tờ giấy, chỉ vỏn vẹn có hai tên người, là cha cô và mẹ cô.
 
Sư cô không thắc mắc… nhưng rồi người này cũng buồn buồn kể lể:
 
Con cũng có nhiều người thân, người quen biết lắm mà giờ này, chúng họ hình như bệnh mà chết hết ráo trọi, hay chán đời dọn bỏ đi đâu xa hết rồi.
 
Con không còn nhớ được họ nữa. Nhớ chi cho mệt! Cô Diệu Tâm hơi tức cười mà cố nín lặng.
 
A Di Đà Phật. Sự thế đó gọi là vô thuờng. Rồi họ cùng im lặng. Sư cô sau đó mời họ dùng trà và cùng lễ phật... cô mời họ cùng nghe nhạc thiền, hòa tự tâm bình, bản nhạc êm dịu nhẹ nhàng phảng phất ít nhiều tư tưởng của kinh Trung A Hàm, bản kinh truyền tải thông điệp về lòng nhân ái và tình thương của đạo pháp.
 
Sư cô Diệu Tâm nhắc nhở được ít nhiều những lời giảng của thầy Thích Tâm Đức gần đây, nhứt là trong mùa phật đản, thầy nhấn mạnh về một trong bốn nguyện của tứ hoằng thệ nguyện, chúng sanh vô biên thệ nguyện độ.
 
Thầy am hiểu phật tử đến chùa, chùa là nơi thanh tịnh thầy giảng trò nghe, bạn đạo yêu kính và hiếu thuận nhau, thì việc tu tập khá dễ dàng. Nhưng trong cuộc sống hàng ngày ngoài đời, đầy rẫy tham sân si, ngược xuôi xuôi ngược, khó thuận chiều xuôi gió với nhau, do đó, chúng sanh được khuyên bảo, cứ theo y pháp, lấy kham nhẫn, khiêm cung mà hành xử đối nhân xử thế.
 
Trong cuộc sống xô bồ, người trái ý nhau cũng nhiều, người thuận ý nhau cũng khó. Thói lề nhân sinh cứ kể ra thì có nhiều loại người khác nhau, thầy và y pháp luôn nhắc nhở phật tử tùy theo căn cơ tương báo nghiệp duyên mà hành xử đối đãi. Nhưng dù hành xử theo cách nào, thì cũng nên căn cứ trên chủng tử tốt lành nhứt của một con người, một con người đang được làm người trong hiện tại là họ có, đã có một chủng tử nguyên nhân tốt lành, dù nhỏ bé, vẫn tồn tại, thị hiện, dù trong một quá khứ rất xa xôi nào đó.
 
Thêm nữa, điều cốt yếu, ta luôn phải bảo trọng gìn giữ thân thể khỏe mạnh. Thân thể khỏe mạnh. Thân thể khỏe mạnh, tâm trí sáng suốt, có trí tuệ. Thân và tâm song hành khỏe mạnh, hành giả mới hội đủ sức lực để học tập đạo pháp và tu tập giải thoát được cho mình và cho người.
 
Khi tâm trí và cơ thể sáng suốt, hành giả dễ điều phục cân đối hóa giải tham sân si. Điều phục an bình tiểu vũ trụ là điều phải làm trước, sau đó mới có thể nhìn ra cảnh quang đại vũ trụ bao bọc xung quanh. Thầy Tâm Đức luôn rao giảng:
 
Cảnh bình thì tâm sẽ bình
Tâm bình thì cảnh sẽ bình
 
Trong hoàn cảnh, cảnh không bình, mà tâm bình, là bạn tu tập đã tiến bộ.
 
Ngay khi còn trẻ, còn khỏe, thầy khuyên rằng phải siêng năng và tụ tập, vì trên con đường luân hồi vòng vo dài vô tận, không biết lúc nào đó sẽ có những chướng ngại va vấp phải, việc tu thân học pháp vốn là trọng yếu và phải năng động chuyên cần. Không giãi đãi. Trên con đường lữ hành vòng vo của luân hồi nghiệp chướng, hành giả có cơ man là bạn đồng hành.
 
Họ cùng ta đi chung và đứng chung trên cầu sinh tử. Thầy dạy hành giả nên đối đãi và sống với họ bằng tâm yêu thương của bồ tát, vì dù sao không bằng bồ tát, cũng nên cố gắng tối đa, khi cho người cũng là cho mình cũng là cho người khác vậy.
 
Trong va chạm của cuộc sống, tiểu vũ trụ biến đổi luôn và biến đổi không lường, vì mỗi chúng sanh tánh ý khác nhau, y vậy, các tiểu vũ trụ trong ta bà thế giới là cơ man khác biệt. Cuộc sống đời đầy lo toan và tranh cãi. Hành giả vất vả đối phó với nhiều hành giả khác nhau đại loại như:
 
Có người có tâm ý và lời nói đều thanh tịnh.
 
Có người tâm ý thanh tịnh mà khẩu hành không đẹp.
 
Có người khẩu hành đẹp mà tâm ý xấu
 
Có người lời nói, ý nghĩ và việc làm đều không đẹp, nhưng thỉnh thoảng tâm họ hé mở rộng, có ít nhiều tịnh tín, dễ thương.
 
Có người ý nghĩ luôn xấu, lời nói luôn xấu, không có môt lúc nào, một chút gì dễ thương, mà xã hội gọi là kiểu người hết thuốc chữa… nhưng vẫn có thể chữa được, vì họ vẫn đang là một con người.
 
Vậy là cá nhân ta, đối diện, sống chung, tranh luận với những kẻ đồng hành khác biệt làm sao cho ổn? Thưa là chúng ta luôn luôn song hành với những bạn đồng hành khác ý, bạn bè, anh em, vợ chồng. Mỗi cá nhân là một biệt lập, họ không thể giống ta, ta cũng không thể theo ý họ… mọi người sống bên nhau, không thể luôn phải giống nhau, trừ kiểu bạn mua một robot và lập trình nó, lại là chuyện khác xa. Không nói tới.
 
Trong trường hợp thông thường, khi khác ý, y pháp gợi ý phải bình tĩnh, định tĩnh để trở vô chánh niệm, để chế tác các năng lượng bình an, bình an cho mình và luôn cả cho người.
 
Khi xưa, phật tổ đi giảng pháp độ sinh, ngài vượt qua rong ruổi từ 8 đến 16 quốc gia dọc theo bờ sông Hằng, ngài đi thuyết pháp và gặp cơ man là chướng duyên, chứng tỏ ai ai cũng có oan gia từ vô lượng kiếp, không phải một mình hành giả đây. Nhưng qua những khó khăn, phật tổ đã dậy chúng sanh biết bao nhiêu là bài học về lòng nhân ái và tình thương đại từ đại bi.
 
Trở lại vấn đề khác biệt, người ta có thể tranh luận. Nhưng là tranh luận trong sáng, không phải là cãi nhau, mà trong tinh thần, cả hai bên, phải biết hướng về bản thể nhị nguyên, không sân hận, không sỉ vả, chấp nhận lý lẽ vận hành có xấu có tốt xen kẻ nhau ở cạnh nhau.
 
Hiện trạng khó đối mặt chỉ được giải quyết trong tinh thần lắng nghequán chiếu, mỗi bên ráng đặt ta vào hoàn cảnh của người, vì ít có ai muốn sống ác.
 
Để tránh lòng sân hận có thể phát khởi, người ta cố gắng nhìn ra điểm tốt để tránh bế tắc. Như đi lượm một mảnh vải vụn, còn tốt, rơi bên đường, mang về giặc sạch, rồi ghép nối, may y phấn tảo! Được quá đi chớ! Rác thải còn làm tưới bón cho hoa hoa tươi nở rộ ven đường kia mà.
(thầy Nhất Hạnh)
 
… Khi xưa bên lối cỏ mòn,
Sư cô gánh nước lên non tưới vườn.
Ê a câu kệ vô thường,
Rớt theo giọt nước bên đường cỏ khô.
Hôm nay lối cũ tình cờ,
Thấy Như Lai trụ bên bờ cỏ xanh!
 
Người ta có thể tranh luận, bàn thảo khéo léo, không gây sân hận và tránh thù hằn vì oán thù nên cởi không nên cột.
 
Khi tranh luận, hành giả “không đa ngôn đa quá” và hạn chế không nói, không nghĩ về lỗi của người.
 
Một cuộc tranh luận khéo léo, chân thành, không sân hận, mà với tinh thần đắc tha tâm tha nhân sẽ cho ra những kinh nghiệm tốt hơn, những chất liệu sống vui đẹp hơn, bởi lẽ cuộc sống này là vận hành của một vũ trụ nhị nguyên, đêm có mặt trăng, ngày có mặt trời, có buổi sáng có buổi tối… có vui có buồn, có nhịp nhàng đưa đẩy, có thành công có thất bại. Sau một cuộc chiến, có vô số người chết và vẫn có vô số người tồn tại. Người bắn giết cứ bắn giết, người cứu cứ tận tâm cứu độ…
 
Vậy hành giả tranh luận với hành giả bạn, để tìm ra ý kiến hay, tốt, hợp lý và tuyệt đối không lấy sân hận làm nền. Chư phật dậy phật tử học, tu, tập quán chiếu theo quán tự tại bồ tát, lắng nghe để điều phục tiểu vũ trụ.
 
Chỉ khi nào tiểu vũ trụ được an hòa trong chánh niệm, may ra hành giả mới đủ lực để hồi hướng phước đức cho tha nhân.
 
Trải qua nhiều kiếp luân hồi, mọi chúng sanh đang làm người đều nhiều ít có căn lành. Nên chư bồ tát, phật Quán Thế Âm luôn lắng nghe tiếng gọi cứu độ của thế gian với tâm nguyện hải hà: chúng sanh vô biên thệ nguyện độ.
 
Ngày nay, toàn thế giới, rất nhiều nơi, các nước tân tiến họ hết chỗ nhốt tù nhân, họ đang rao để thuê đất ở một quê hương khác để có chỗ nuôi và giáo hóa tù nhân vì sau cùng, may thay, họ không ghét và trừ bỏ, họ dậy dỗ lại và cứu vớt, hóa độ, để mong có ngày phật, chúa hóa hữu duyên nhân.
 
Trong hiện tại, thế giới vô vàn rối loạn, để cầu an bình, mọi hành giả chúng ta hướng tâm về hạnh nguyện của đức Đại Hành Phổ Hiền Bồ Tát:
 
Tùy hỉ công đức tùy nguyện chúng sanh.
 
Nói chung cuộc,
 
Nếu mỗi hành giả tu, học, hiểu để siêng năng quán chiếu, tùy thuận chúng sanh, hai chiều hổ tương tốt đẹp, an hòa, để cố đi đến chỗ ta và người cùng giải thoát.
 
Chưa hẳn nói là được giải thoát khỏi luân hồi lục đạo vội vã mà chi, chỉ trước mắt là được giải thoát khỏi buồn giận, sân hận và thù nghịch, đầu mối của chiến tranh.
 
Thưa là: Cảnh bình thì tâm sẽ bình
Tâm bình thì cảnh sẽ bình
Và sau cùng tâm bình thì thế giới bình.
 
A Di Đà Phật
Mùa Vu Lan 2025
Chúc Thanh
 
Chúc Thanh thành kính tri ơn thầy Thích Tâm Đức
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ngày xưa, thông thường, chồng của cô giáo được gọi là thầy, cũng như vợ của thầy giáo được gọi là cô. Cho dù người chồng hoặc vợ không làm việc trong ngành giáo dục. Nhưng trường hợp cô giáo tôi, cô Đỗ Thị Nghiên, trường Nữ Tiểu Học Quảng Ngãi thì khác. Chồng của cô, thầy Nguyễn Cao Can, là giáo sư dạy trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi. Cô Đỗ Thị Nghiên dạy lớp Bốn, trường Nữ Tiểu Học. Trong mắt nhìn của tôi, của con bé mười tuổi thuở ấy, cô Nghiên là một cô giáo rất đặc biệt. Cô nói giọng bắc, giọng nói trầm bổng, du dương. Tóc cô ngắn, ôm tròn khuôn mặt. Da cô trắng nõn nà. Có lần ngoài giờ học, trên đường phố của thị xã Quảng Ngãi, tôi thấy hai vợ chồng thầy Can, cô Nghiên đèo nhau trên xe gắn máy. Cô mặc jupe, mang kính mát, ngồi một bên, tréo chân, khép nép dựa vai thầy. Ấn tượng để lại trong trí của con bé tiểu học là hình ảnh của đôi vợ chồng sang trọng, thanh lịch, tân thời, cùng mang thiên chức cao cả: dạy dỗ lũ trẻ con nên người.
Tháng Tư này tròn 50 năm biến cố tang thương của miền Nam Việt Nam, những người Việt hải ngoại, đời họ và thế hệ con cháu đã trưởng thành và thành công trên xứ người về mọi mặt học vấn cũng như công ăn việc làm. Họ đang hưởng đời sống ấm no tự do hạnh phúc đúng nghĩa không cần ai phải tuyên truyền nhồi sọ. Nhưng trong lòng họ vẫn còn bao nhiêu kỷ niệm thân thương nơi chốn quê nhà.
Có một buổi trưa, hai đứa đang thưởng thức bò bía, đậu đỏ bánh lọt ở chùa Xá Lợi, góc Bà Huyện Thanh Quan và Ngô Thời Nhiệm (?), thì gặp một "cái bang". Đầu đội khăn rằn, đeo mắt kiếng cận nặng, cổ quấn vài ba chiếc khăn đủ màu và ông còn dẫn theo hai con chó, vừa đi vừa múa tay múa chân như người say rượu. Chừng như ông không cần thấy ai, chung quanh chỉ có ông và hai con chó. Người đàn ông "cái bang" đó là nhà thơ, nhà văn, nhà biên khảo nổi tiếng của Việt Nam: Bùi Giáng. Hai con chó vừa đi vừa sủa vang, khiến một số nữ sinh Gia Long đang đứng quanh xe bò bía, vội vã chạy né qua bên kia đường. T
Một ngày nọ, ngài gặp một bà mẹ, bà ôm một đứa con vừa mất vừa đi vừa khóc lóc thảm thiết, ai cũng mũi lòng thương, thông cảm vì mất con là nỗi đau khổ nhứt trong cuộc đời… người ta mách bảo là bà nên gặp Sa Môn Cồ Đàm, bà sung sướng bế con đã mất đi ngay và gặp phật, xin phật dùng phép thần thông cứu sống con bà. Xung quanh phật, các tì kheo đang ngồi cầu nguyện cho chúng sanh được giải thoát và cũng cầu nguyện cho các chúng sanh còn tại thế sẽ may mắn mà gặp được giáo pháp của Như Lai. Rồi người mẹ đau khổ cũng được gặp phật.
Cuối tháng Ba, những cơn gió nóng tràn về thành phố. Một hai trận mưa lạc loài đến sớm rồi thôi. Không khí ngột ngạt. Mùi đất nồng khó chịu. Như một cô gái uể oải trong cơn bệnh, thành phố trông mệt mỏi, rạc rời. Đoan đi vào Câu lạc bộ của trường. Bình thường, cứ đến thứ Sáu là không khí chuẩn bị cho chiều văn nghệ thứ Bảy lại nhộn nhịp. Nhưng hôm nay, như có một cái gì kéo mọi thứ chùng xuống. Chị Thuận, người phụ trách Câu lạc bộ, mỉm cười khi thấy Đoan, nhưng là một nụ cười kém tươi. Chị vẫn câu chào hỏi thường lệ: “Em uống gì không?” “Dạ, chị cho em nước chanh.” Chị Thuận pha ly nước chanh đặc biệt, nóng, ít đường, mang đến để trước mặt Đoan, và kéo ghế ngồi xuống bên Đoan. Hình như không có gì để bắt chuyện, chị Thuận nhìn ra sân, nói nhỏ:
Tôi khép cánh cửa phòng ngủ, rón rén bước ra, sợ gây tiếng động làm thằng cháu nội lại giật mình thức giấc; thằng bé đã mười tháng tuổi, biết làm đủ thứ trò như con khỉ con, chiếc mũi bé xíu của nó chun lại, đôi môi dầy cong lên, mỗi khi bà nội bảo nó làm xấu, thật dễ thương, canh nó hơi mệt vì phải chơi cho nó đừng chán, lèo nhèo, nhưng chơi nhiều thì sức bà nội có hạn, làm sao chạy theo nó cả ngày được!
Những cái mặt hướng về phía trước. Những cái đầu hơi cúi, những cái lưng hơi còng có lẽ bởi sức nặng của chiếc ba lô đeo sau lưng, hay tại - nói một cách màu mè, văn vẻ, đầy giả dối là - gánh nặng của đời sống. Trước mặt tối đen. Bên phải là những cánh cửa cuộn bằng tôn đóng kín. Những cánh cửa lạnh lùng, vô cảm; lầm lì từ khước, âm thầm xua đuổi. Dưới chân là nền xi măng. Cứng và lạnh. Không thể là nơi tạm dừng chân, nghỉ mệt. Sâu vào phía sát vách là nền lót những viên gạch vuông. Không một cọng rác. Không một bóng chó hoang, mèo lạc. Không cả những hình hài vô gia cư bó gối vẩn vơ nhìn nhân gian qua lại.
Đức hạnh cao quý thể hiện thành tâm vô phân biệt. Tâm vô phân biệt tạo thành một sự bình đẳng tuyệt đối trong giáo pháp của đức phật. Giáo pháp thâm sâu vi diệu của Như Lai thì không phải ai cũng hiểu hết, cũng ngộ được điều đó đa phần các vị đại trí thấu đạt. Còn lòng từ bi của phật thì lan tỏa vô phân biệt như ánh sáng mặt trời soi sáng khắp nơi nơi, như mưa rơi tắm mát đại ngàn. Những lời giảng dậy trên đây được dẫn chứng nhiều và rõ nhứt là ở phật giáo Tây Tạng.
Anh Hai của tôi, sau chuyến vượt biên thất bại, bị giam ở nhà tù Bình Đại Bến Tre chín tháng, khi trở lại trường Phan Thanh Giản, Cần Thơ mới biết đã bị cắt hộ khẩu, mất việc làm, bèn quay về Sài Gòn sống tạm với gia đình, chờ cơ hội vượt biên tiếp theo. Một hôm, anh bị cơn sốt rét tái phát hành hạ, (hậu quả của những ngày trong trại giam), cần phải đến bệnh viện chữa trị, nhưng hộ khẩu không có, anh bèn mượn cái Sổ Sức Khỏe của thằng cháu (con bà chị họ ở kế bên nhà), để đi khám bệnh
Năm đó, tôi qua Arlington,Texas thăm gia đình, rồi ghé Dallas thăm người hàng xóm cũ thân thiết từ khi còn ở Việt Nam . Chú Thím ấy đónvợ chồng tôi nồng hậu như mọi khi, bữa ăn đặc sản món Huế như tôi yêu cầu, sau đó kéo nhau ra phòng khách ăn bánh uống trà . Rồi Thím gọi cháu ngoại: - Thiên Ân ơi, ra đây ca hát cho hai bác Canada nghe đi con.-Cô bé hai, ba tuổi tung tăng ngoan ngoãn khoanh tay chào chúng tôi, rồi bạo dạn chạy ra giữa phòng, tay giả bộ cầm micro phone, rồi nhún nhảy tự nhiên hát một bài hát Tiếng Việt thật rõ ràng .
Ngày xưa rất xa xưa, ở vùng quê thôn dã, người dân sống giản dị, đơn sơ, mộc mạc; người ta trồng tỉa những vườn rau cải, vườn ngô, vườn cà… lấy hoa lợi để sống. Thường thường có chim chóc kiếm ăn đến phá phách, dãi dãi, mổ mổ những hạt mới ươm trồng hay những nụ hoa mới ra, chúng ăn, với con người trồng tỉa lấy hoa lợi là chúng nghịch ngợm và phá hoại, ăn khín. Mới đầu chúng đến một vài con, sau rủ nhau đến nhiều hơn, cả nhà cả đàn chim chóc… và người gia chủ trồng tỉa phải tìm cách bảo vệ hoa màu của họ, nguồn sống của họ.
Người đàn bà với tay kéo tấm bạt vải phủ hai mặt bàn thấp và lổng chổng mấy cái ghế úp lại phía trên. Buổi chiều tháng chín nhả vài vệt nắng vàng sậm trên mấy lùm cây mắm khẳng khiu mọc hoang dại bên hông. Căn nhà chia làm hai, phía trên mặt lộ làm quán lộ thiên, phần còn lại là căn nhà sàn nằm doi ra mặt bờ kinh Cụt. Mặt quán cũng được biến dạng mỗi ngày. Sáng có cà-phê, hàng xôi và thuốc lá. Buổi trưa là quán cơm bình dân cho đám khách hàng chợ Giữa, đến từ các huyện xa xôi. Tối đến, chỉ còn vỏn vẹn thùng thuốc lá bán lẻ. Tất cả sinh hoạt biến dạng dưới bàn tay của người đàn bà và đứa con gái nhỏ. Người ta nhìn thấy trong đôi mắt nâu đen của hai má con in đậm hình ảnh căn nhà chật chội, bày biện lượm thượm những ghế bàn buồn bã, lạnh lùng. Bóng dáng người đàn bà và bếp lửa áo cơm, vẫn không đủ vẽ lên khung cảnh đầm ấm của một gia đình. Đứa con gái mười bốn tuổi, giống má, lầm lũi như chiếc bóng trong nhịp đời hờ hững.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.