Hôm nay,  

Tạm Biệt Phi Trần, ‘Nhà Phạm Duy Học’ Của Những Ngày Xưa Truyện Đẹp

06/06/202506:39:00(Xem: 1168)

phi trân 1
…Cho đi lại từ đầu

Chưa đi vội về sau… (Kỷ Niệm, Phạm Duy)

 

Nhận được tin bạn Phi mất ở Việt Nam vào đầu Tháng Sáu, sau vài ngày buồn, tôi còn biết thêm rằng chắc chắn mình đã già. Bởi vì người xưa vẫn thường nói sống với quá khứ là triệu chứng của tuổi già. Việc Phi mất đi đem tôi về với nhiều kỷ niệm cách đây đã ba mươi năm, sống lại với những ngày xưa truyện đẹp, làm tăng thêm cảm giác cô đơn trong hiện tại.

 

Lần đầu tiên tôi gặp và quen với Phi là qua T., một người bạn văn nghệ, vào khoảng cuối những năm 1990s đầu 2000s, thời điểm mà Việt Nam đang đổi mới mạnh mẽ. Trong nước bắt đầu cho hát lại ngày càng nhiều bài “Nhạc Vàng” trước 75. Việt Kiều bắt đầu kéo nhau về nước làm ăn ngày càng đông. Nhóm bạn “Hội Ca Cầm” chúng tôi thỉnh thoảng vẫn thường họp nhau đàn hát. Lần đó, T. nói rằng: “kỳ này mình rủ thêm một người bạn mới, là Việt kiều Mỹ, thích và hát nhạc Phạm Duy hay lắm…” Phi được “kết nạp” vào nhóm vì có cùng một gout nhạc. Trong nhóm có ba người được cho là mê nhạc Phạm Duy nhất: Phi, K., và tôi.

 

Vào năm 2001, lần đầu tiên tôi đi du lịch Mỹ. Trong một buổi họp mặt với bạn bè, thấy một người cầm cuốn nhạc Phạm Duy Ngàn Lời Ca để hát, tôi mê quá xin một cuốn. Lúc đó nó không còn được bán nữa, nên bạn phải đem đi photocopy một bản sao. Như vậy cũng là quí lắm rồi. Tôi cầm về nước, trong những buổi văn nghệ đem ra để đàn cho bạn bè hát. Nhiều người trầm trồ, lại xin một bản copy. Có lẽ đã có trên 10 cuốn này được copy lại (vi phạm bản quyền nặng nề!) Cũng nhờ “bửu bối” này, tôi đâm ra nổi tiếng trong bạn bè là biết nhiều nhạc Phạm Duy.

 

Vào thời điểm đó, hát Nhạc Vàng là một “thời thượng” đối với một số trí thức ở Sài Gòn. Sau bao năm chỉ được hát và nghe nhạc cách mạng, người dân đã quá ngán ngẩm. Nay việc cấm nhạc trước 1975 được nới lỏng, nhiều người mạnh dạn tìm nghe và hát nhạc tình, nhạc bolero, nhạc lính của Miền Nam. Những người biết nhiều Nhạc Vàng thường được thiên hạ ngưỡng mộ. Có lần một thằng bạn dắt tôi đi ăn nhậu với một nhóm doanh nhân thành đạt và văn nghệ sĩ. Một nhà thơ cách mạng khá nổi tiếng, sau khi ngà ngà say cao hứng tuyên bố rằng nếu ai trong bàn tìm được một ca khúc Phạm Duy mà anh không biết, anh sẽ sẵn sàng trả hết chầu nhậu. Thằng bạn hứng chí, nhờ tôi lên tiếng. Chỉ mới hỏi có hai bài, ông nhà thơ này đã “tịt ngòi”, và còn chống chế rằng hai bài này không chắc là của Phạm Duy!

 

Kể lại câu chuyện này để thấy rằng ở Việt Nam thời đó tìm được người nghe cùng gout nhạc là không dễ. Còn cùng mê nhạc Phạm Duy thì lại càng hiếm hoi hơn. Cũng vì thế, tôi trở nên thân thiết với Phi ngay từ lần đầu gặp. Kể từ đó, trong những buổi văn nghệ, Phi thường yêu cầu tôi đệm guitar để hát nhạc Phạm Duy. Nhóm gọi đùa Phi là “nhà Phạm Duy học.” Trước khi hát một ca khúc, Phi thường chậm rãi nói về xuất xứ của ca khúc, Phạm Duy viết năm nào, vì lý do gì, tặng cho ai… Hay có khi chỉ là những suy nghĩ của Phi về những ẩn dụ đằng sau lời bài hát. Phi chỉ bằng hay thua tôi một tuổi, vào trước 1975 chỉ mới bắt đầu tuổi teen; vậy mà không hiểu tại sao kiến thức về âm nhạc Phạm Duy lại có thể phong phú đến như vậy. Với cái giọng Bắc cổ, trầm ấm, mọi người thích thú lắng nghe những “giai thoại Phạm Duy” do Phi kể.

phi tran
Phi Trần ngồi giữa hai người bạn cùng mê nhạc Phạm Duy trong lần gặp cuối cùng ở Sài Gòn vào tháng 3 năm 2025.

 

Phi không phải là ca sĩ, nhưng khi hát nhạc Phạm Duy rất có hồn, truyền cảm. Đệm đàn cho Phi hát nhạc Phạm Duy như được truyền thêm cảm hứng. Hội Ca Cầm có hai người hát Phạm Duy say mê như nhau là K. và Phi. Kể từ khi có thêm Phi, K. bị “dành” bớt một số ca khúc Phạm Duy mà trước đây K. là độc quyền trong những buổi văn nghệ. Phong cách hát nhạc Phạm Duy của hai người bạn này cũng có cá tính riêng. K. hát như lên đồng, thổn thức, kể lể tâm sự với lời hát; trong khi Phi cất giọng khoan thai, trầm tĩnh như kể chuyện. Tôi thích so sánh là K. hát như “cô Thái” (là ca sĩ theo K. hát nhạc Phạm Duy hay nhất), còn Phi hát theo kiểu Thái Hiền.

 

Càng biết nhiều về Phi lại càng thêm quí mến, nể phục. Phi không chỉ biết nhiều nhạc Phạm Duy, mà còn nhiều thể loại nhạc của Miền Nam trước 75. Kiến thức và văn học nghệ thuật của Phi cũng rất rộng; Phi nhớ nhiều bài thơ tiền chiến, tiểu thuyết của văn học Sài Gòn. Nhưng điều làm tôi phục nhất là dù sống với phong cách nghệ sĩ, Phi vẫn là một nhà kinh doanh xuất sắc, thành công ở Việt Nam. Ngày Phi mất, bạn bè chuyền nhau một bài viết trên mạng của tạp chí Harper’s Bazar đăng từ năm 2020 có tựa đề: “Phil Trần – Ceo Của Glass Egg Nói Về Triết Lý Sống Và Làm Việc”. Bài báo mô tả chính xác tính cách của Phi mà tôi được biết trong đời sống tinh thần; và giải thích thêm về những nguyên tắc trong kinh doanh khiến Phi thành công trong vai trò lãnh đạo một doanh nghiệp. Bài báo có đoạn: “…Phil Trần là CEO của Glass Egg. Một công ty chuyên gia công đồ họa cho các game từ khắp nơi trên thế giới. Không bàn đến những chiến lược phát triển doanh nghiệp to tát, tôi ấn tượng nhiều hơn đến việc anh đặc biệt chú trọng văn hóa doanh nghiệp. Tôn chỉ hoạt động của công ty dựa trên bảy từ vàng: Tôn trọng, Tin tưởng, Hiểu biết, Hỗ trợ, Tích cực, Công bằng và Thành thực. Phil Trần tin rằng: Hiểu rõ và rèn luyện mỗi ngày chính là tiền đề cho một môi trường làm việc trong sạch…”

 

Bản thân tôi chưa bao giờ là một người thành công trong kinh doanh. Sống và làm việc ở Việt Nam hơn 30 năm dưới chế độ cộng sản, tôi hiểu rõ việc làm giàu là rất khó khăn, đặc biệt với những người không có thế quyền, những người lấy trung thực làm tôn chỉ kinh doanh. Vậy mà người bạn văn nghệ vẫn vươn lên một cách xuất sắc. Phi không chỉ là một tấm gương, mà còn cho tôi một niềm tin tưởng rằng thương trường dù khốc liệt đến mấy vẫn sẽ có chỗ cho những người tử tế.

 

Giàu có và thành đạt, tôi không bao giờ thấy Phi thể hiện điều đó mỗi khi gặp gỡ hát hò với bạn bè. Không thấy Phi xem tôi có gì khác biệt, chỉ là hai thằng bạn cùng mê nhạc Phạm Duy như nhau. Phi thường xuyên giúp đỡ bạn, và giúp hết lòng. Tôi có một cô cháu gái hồi mới tốt nghiệp đại học ở Sài Gòn muốn được đi làm cho một công ty Mỹ để có cơ hội đi du học, lấy bằng master ở Mỹ. Tôi viết email về nhờ vả. Phi nhận cháu vào làm, bảo cháu có năng lực đặc biệt nên đưa vào vị trí lãnh đạo từ rất sớm. Khi cháu sang Mỹ du học cách đây ba năm, Phi tiếp tục hỗ trợ bằng cách giới thiệu bạn bè kinh doanh ở Mỹ, giúp cháu có cơ hội tìm việc làm và ở lại Mỹ, mặc dù Phi khuyên cháu tốt nghiệp xong nên về Việt Nam làm vì có nhiều cơ hội hơn. Cả gia đình cháu xem Phi là một ân nhân đặc biệt.

 

Gia đình tôi đi định cư ở Mỹ năm 2006, Phi vẫn ở lại Việt Nam vẫn giữ liên lạc. Mỗi lần về Việt Nam, có dịp là tôi lại rủ Phi, K. và một vài người bạn cũ hát hò như ngày xưa. Phi mỗi lần về Mỹ cũng hay gọi tôi đi ăn và trò chuyện. Sau này có dịp làm quen với một số người bạn của Phi ở Mỹ từ vài chục năm trước; tất cả đều nói về Phi đúng như những gì tôi biết về bạn mình. QT nói rằng nhờ Phi mà mình bắt đầu đọc nhiều thơ Xuân Diệu, Huy Cận, Hồ Xuân Hương, Bùi Giáng trong lớp Chemistry thay vì làm lab lúc học high school; nhờ vậy vẫn tiếp tục yêu văn thơ Việt. T. cho biết Phi là bạn học Berkeley năm 1992-1994, sinh hoạt văn nghệ trong Hội Sinh Viên Việt Nam. T có hát song ca với Phi bài Vợ Chồng Quê thuở đó. P. thì nhớ Phi mê nhạc, mê văn, mê thơ, làm cái gì cũng nồng nhiệt.

 

Năm ngoái, Phi về Mỹ, báo là mình đã về hưu. Phi khoe mới mua một cái nhà lớn ở Tampa để về hưu, dưỡng già, và rủ bạn bè chuẩn bị sang chơi. Phi hỏi ý kiến về việc giúp một tổ chức chuyên nghiên cứu và bảo tồn lịch sử VNCH. Về lại Việt Nam, Phi email bảo mình về hưu nên có nhiều thì giờ, hỏi muốn giúp đỡ giới báo chí hải ngoại để duy trì văn học nghệ thuật Việt Nam thì nên làm gì. Tôi nói đang định học làm layout cho Việt Báo. Phi bảo đã từng làm việc này thời sinh viên, nên xung phong làm không công. Phi tự mua cho mình một phần mềm chuyên để layout báo, và chuẩn bị bắt tay vào làm thử.

 

Nhưng rồi… Vô thường ập đến, không chừa một ai, không báo trước…

 

Vào Tháng 11 năm ngoái, Phi báo là vừa đi khám bệnh, và được chuẩn đoán là ung thư dạ dày ở giai đoạn ba, sẽ sang Singapore để điều trị. Phi rất lạc quan, nói là mình đã sống trọn vẹn, cho nên không lo sợ gì về cái chết; sẽ tập trung lo điều trị và hy vọng sẽ vượt qua. Việc layout cho Việt Báo tạm hoãn. Phi còn hứa là Tháng Ba năm nay sẽ về lại Mỹ để dự chương trình sinh nhật 80 của Khánh Ly, và thăm lại bạn bè cũ. Nhưng vào phút chót, Phi báo là không thể về được vì lý do gia đình. Riêng tôi biết đó là điềm báo không hay…

 

Vào cuối Tháng Ba, tôi về Việt Nam, rủ Phi và K. đi ăn trưa. Phi rất gầy, cho biết dù đang hóa trị nhưng ung thư vẫn phát triển, đang chuẩn bị đi Thái Lan để tìm phương pháp điều trị khác. Còn nước, còn tát. Bạn bè gặp Phi hôm đó, ai cũng muốn rớt nước mắt… K. thì vẫn nói câu quen thuộc: “…Nhìn Phi mà đứt ruột…!”

 

Tôi về lại Mỹ đến giữa tháng 5 thì nghe bạn bè nói Phi đã được đưa về nhà để an dưỡng, không chữa trị gì thêm nữa. Đến ngày 2 tháng 6 là nhận tin Phi đã qua đời ở Sài Gòn. Đám tang tổ chức một ngày sau đó. Dù đã chuẩn bị trước, nhưng không khỏi bàng hoàng. Mọi chuyện diễn ra chỉ trong vòng 6 tháng…

 

Tôi có ba người bạn thân nhất trong Hội Ca Cầm, nay đều đã mất. Anh Trần Đại Lộc mất từ năm 1997; anh Thân mất vào năm ngoái; và năm nay là anh Phi. Nhớ hồi anh Lộc mất, chị Q. là một người bạn thân của anh nói rằng: “…đau lòng vì người tốt, dễ mến như Lộc mà lại vắn số…” Nay đối với Phi, tôi cũng nghĩ như vậy. Một người bạn đạt được những điều trong đời mà biết bao người không có. Là một tấm gương sống sao cho ra sống để chết đi không có gì hối tiếc. Là một niềm hy vọng cho sự tử tế vốn ngày càng trở nên xa xỉ ở nước Mỹ mà tôi đang tiếp tục sống.

 

Mà cũng chẳng sao… Rồi ai cũng sẽ đi đến điểm kết của vòng sinh tử luân hồi…

 

Tạm biệt nhé Phi. Nếu đủ duyên, mình sẽ lại gặp nhau, hát hò ở một cõi khác…

 

Doãn Hưng

Ý kiến bạn đọc
07/06/202512:58:31
Khách
Cam dong qua!
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ngày xưa, thông thường, chồng của cô giáo được gọi là thầy, cũng như vợ của thầy giáo được gọi là cô. Cho dù người chồng hoặc vợ không làm việc trong ngành giáo dục. Nhưng trường hợp cô giáo tôi, cô Đỗ Thị Nghiên, trường Nữ Tiểu Học Quảng Ngãi thì khác. Chồng của cô, thầy Nguyễn Cao Can, là giáo sư dạy trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi. Cô Đỗ Thị Nghiên dạy lớp Bốn, trường Nữ Tiểu Học. Trong mắt nhìn của tôi, của con bé mười tuổi thuở ấy, cô Nghiên là một cô giáo rất đặc biệt. Cô nói giọng bắc, giọng nói trầm bổng, du dương. Tóc cô ngắn, ôm tròn khuôn mặt. Da cô trắng nõn nà. Có lần ngoài giờ học, trên đường phố của thị xã Quảng Ngãi, tôi thấy hai vợ chồng thầy Can, cô Nghiên đèo nhau trên xe gắn máy. Cô mặc jupe, mang kính mát, ngồi một bên, tréo chân, khép nép dựa vai thầy. Ấn tượng để lại trong trí của con bé tiểu học là hình ảnh của đôi vợ chồng sang trọng, thanh lịch, tân thời, cùng mang thiên chức cao cả: dạy dỗ lũ trẻ con nên người.
Tháng Tư này tròn 50 năm biến cố tang thương của miền Nam Việt Nam, những người Việt hải ngoại, đời họ và thế hệ con cháu đã trưởng thành và thành công trên xứ người về mọi mặt học vấn cũng như công ăn việc làm. Họ đang hưởng đời sống ấm no tự do hạnh phúc đúng nghĩa không cần ai phải tuyên truyền nhồi sọ. Nhưng trong lòng họ vẫn còn bao nhiêu kỷ niệm thân thương nơi chốn quê nhà.
Có một buổi trưa, hai đứa đang thưởng thức bò bía, đậu đỏ bánh lọt ở chùa Xá Lợi, góc Bà Huyện Thanh Quan và Ngô Thời Nhiệm (?), thì gặp một "cái bang". Đầu đội khăn rằn, đeo mắt kiếng cận nặng, cổ quấn vài ba chiếc khăn đủ màu và ông còn dẫn theo hai con chó, vừa đi vừa múa tay múa chân như người say rượu. Chừng như ông không cần thấy ai, chung quanh chỉ có ông và hai con chó. Người đàn ông "cái bang" đó là nhà thơ, nhà văn, nhà biên khảo nổi tiếng của Việt Nam: Bùi Giáng. Hai con chó vừa đi vừa sủa vang, khiến một số nữ sinh Gia Long đang đứng quanh xe bò bía, vội vã chạy né qua bên kia đường. T
Một ngày nọ, ngài gặp một bà mẹ, bà ôm một đứa con vừa mất vừa đi vừa khóc lóc thảm thiết, ai cũng mũi lòng thương, thông cảm vì mất con là nỗi đau khổ nhứt trong cuộc đời… người ta mách bảo là bà nên gặp Sa Môn Cồ Đàm, bà sung sướng bế con đã mất đi ngay và gặp phật, xin phật dùng phép thần thông cứu sống con bà. Xung quanh phật, các tì kheo đang ngồi cầu nguyện cho chúng sanh được giải thoát và cũng cầu nguyện cho các chúng sanh còn tại thế sẽ may mắn mà gặp được giáo pháp của Như Lai. Rồi người mẹ đau khổ cũng được gặp phật.
Cuối tháng Ba, những cơn gió nóng tràn về thành phố. Một hai trận mưa lạc loài đến sớm rồi thôi. Không khí ngột ngạt. Mùi đất nồng khó chịu. Như một cô gái uể oải trong cơn bệnh, thành phố trông mệt mỏi, rạc rời. Đoan đi vào Câu lạc bộ của trường. Bình thường, cứ đến thứ Sáu là không khí chuẩn bị cho chiều văn nghệ thứ Bảy lại nhộn nhịp. Nhưng hôm nay, như có một cái gì kéo mọi thứ chùng xuống. Chị Thuận, người phụ trách Câu lạc bộ, mỉm cười khi thấy Đoan, nhưng là một nụ cười kém tươi. Chị vẫn câu chào hỏi thường lệ: “Em uống gì không?” “Dạ, chị cho em nước chanh.” Chị Thuận pha ly nước chanh đặc biệt, nóng, ít đường, mang đến để trước mặt Đoan, và kéo ghế ngồi xuống bên Đoan. Hình như không có gì để bắt chuyện, chị Thuận nhìn ra sân, nói nhỏ:
Tôi khép cánh cửa phòng ngủ, rón rén bước ra, sợ gây tiếng động làm thằng cháu nội lại giật mình thức giấc; thằng bé đã mười tháng tuổi, biết làm đủ thứ trò như con khỉ con, chiếc mũi bé xíu của nó chun lại, đôi môi dầy cong lên, mỗi khi bà nội bảo nó làm xấu, thật dễ thương, canh nó hơi mệt vì phải chơi cho nó đừng chán, lèo nhèo, nhưng chơi nhiều thì sức bà nội có hạn, làm sao chạy theo nó cả ngày được!
Những cái mặt hướng về phía trước. Những cái đầu hơi cúi, những cái lưng hơi còng có lẽ bởi sức nặng của chiếc ba lô đeo sau lưng, hay tại - nói một cách màu mè, văn vẻ, đầy giả dối là - gánh nặng của đời sống. Trước mặt tối đen. Bên phải là những cánh cửa cuộn bằng tôn đóng kín. Những cánh cửa lạnh lùng, vô cảm; lầm lì từ khước, âm thầm xua đuổi. Dưới chân là nền xi măng. Cứng và lạnh. Không thể là nơi tạm dừng chân, nghỉ mệt. Sâu vào phía sát vách là nền lót những viên gạch vuông. Không một cọng rác. Không một bóng chó hoang, mèo lạc. Không cả những hình hài vô gia cư bó gối vẩn vơ nhìn nhân gian qua lại.
Đức hạnh cao quý thể hiện thành tâm vô phân biệt. Tâm vô phân biệt tạo thành một sự bình đẳng tuyệt đối trong giáo pháp của đức phật. Giáo pháp thâm sâu vi diệu của Như Lai thì không phải ai cũng hiểu hết, cũng ngộ được điều đó đa phần các vị đại trí thấu đạt. Còn lòng từ bi của phật thì lan tỏa vô phân biệt như ánh sáng mặt trời soi sáng khắp nơi nơi, như mưa rơi tắm mát đại ngàn. Những lời giảng dậy trên đây được dẫn chứng nhiều và rõ nhứt là ở phật giáo Tây Tạng.
Anh Hai của tôi, sau chuyến vượt biên thất bại, bị giam ở nhà tù Bình Đại Bến Tre chín tháng, khi trở lại trường Phan Thanh Giản, Cần Thơ mới biết đã bị cắt hộ khẩu, mất việc làm, bèn quay về Sài Gòn sống tạm với gia đình, chờ cơ hội vượt biên tiếp theo. Một hôm, anh bị cơn sốt rét tái phát hành hạ, (hậu quả của những ngày trong trại giam), cần phải đến bệnh viện chữa trị, nhưng hộ khẩu không có, anh bèn mượn cái Sổ Sức Khỏe của thằng cháu (con bà chị họ ở kế bên nhà), để đi khám bệnh
Năm đó, tôi qua Arlington,Texas thăm gia đình, rồi ghé Dallas thăm người hàng xóm cũ thân thiết từ khi còn ở Việt Nam . Chú Thím ấy đónvợ chồng tôi nồng hậu như mọi khi, bữa ăn đặc sản món Huế như tôi yêu cầu, sau đó kéo nhau ra phòng khách ăn bánh uống trà . Rồi Thím gọi cháu ngoại: - Thiên Ân ơi, ra đây ca hát cho hai bác Canada nghe đi con.-Cô bé hai, ba tuổi tung tăng ngoan ngoãn khoanh tay chào chúng tôi, rồi bạo dạn chạy ra giữa phòng, tay giả bộ cầm micro phone, rồi nhún nhảy tự nhiên hát một bài hát Tiếng Việt thật rõ ràng .
Ngày xưa rất xa xưa, ở vùng quê thôn dã, người dân sống giản dị, đơn sơ, mộc mạc; người ta trồng tỉa những vườn rau cải, vườn ngô, vườn cà… lấy hoa lợi để sống. Thường thường có chim chóc kiếm ăn đến phá phách, dãi dãi, mổ mổ những hạt mới ươm trồng hay những nụ hoa mới ra, chúng ăn, với con người trồng tỉa lấy hoa lợi là chúng nghịch ngợm và phá hoại, ăn khín. Mới đầu chúng đến một vài con, sau rủ nhau đến nhiều hơn, cả nhà cả đàn chim chóc… và người gia chủ trồng tỉa phải tìm cách bảo vệ hoa màu của họ, nguồn sống của họ.
Người đàn bà với tay kéo tấm bạt vải phủ hai mặt bàn thấp và lổng chổng mấy cái ghế úp lại phía trên. Buổi chiều tháng chín nhả vài vệt nắng vàng sậm trên mấy lùm cây mắm khẳng khiu mọc hoang dại bên hông. Căn nhà chia làm hai, phía trên mặt lộ làm quán lộ thiên, phần còn lại là căn nhà sàn nằm doi ra mặt bờ kinh Cụt. Mặt quán cũng được biến dạng mỗi ngày. Sáng có cà-phê, hàng xôi và thuốc lá. Buổi trưa là quán cơm bình dân cho đám khách hàng chợ Giữa, đến từ các huyện xa xôi. Tối đến, chỉ còn vỏn vẹn thùng thuốc lá bán lẻ. Tất cả sinh hoạt biến dạng dưới bàn tay của người đàn bà và đứa con gái nhỏ. Người ta nhìn thấy trong đôi mắt nâu đen của hai má con in đậm hình ảnh căn nhà chật chội, bày biện lượm thượm những ghế bàn buồn bã, lạnh lùng. Bóng dáng người đàn bà và bếp lửa áo cơm, vẫn không đủ vẽ lên khung cảnh đầm ấm của một gia đình. Đứa con gái mười bốn tuổi, giống má, lầm lũi như chiếc bóng trong nhịp đời hờ hững.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.