Hôm nay,  

Tạm Biệt Phi Trần, ‘Nhà Phạm Duy Học’ Của Những Ngày Xưa Truyện Đẹp

06/06/202506:39:00(Xem: 3008)

phi trân 1
…Cho đi lại từ đầu

Chưa đi vội về sau… (Kỷ Niệm, Phạm Duy)

 

Nhận được tin bạn Phi mất ở Việt Nam vào đầu Tháng Sáu, sau vài ngày buồn, tôi còn biết thêm rằng chắc chắn mình đã già. Bởi vì người xưa vẫn thường nói sống với quá khứ là triệu chứng của tuổi già. Việc Phi mất đi đem tôi về với nhiều kỷ niệm cách đây đã ba mươi năm, sống lại với những ngày xưa truyện đẹp, làm tăng thêm cảm giác cô đơn trong hiện tại.

 

Lần đầu tiên tôi gặp và quen với Phi là qua T., một người bạn văn nghệ, vào khoảng cuối những năm 1990s đầu 2000s, thời điểm mà Việt Nam đang đổi mới mạnh mẽ. Trong nước bắt đầu cho hát lại ngày càng nhiều bài “Nhạc Vàng” trước 75. Việt Kiều bắt đầu kéo nhau về nước làm ăn ngày càng đông. Nhóm bạn “Hội Ca Cầm” chúng tôi thỉnh thoảng vẫn thường họp nhau đàn hát. Lần đó, T. nói rằng: “kỳ này mình rủ thêm một người bạn mới, là Việt kiều Mỹ, thích và hát nhạc Phạm Duy hay lắm…” Phi được “kết nạp” vào nhóm vì có cùng một gout nhạc. Trong nhóm có ba người được cho là mê nhạc Phạm Duy nhất: Phi, K., và tôi.

 

Vào năm 2001, lần đầu tiên tôi đi du lịch Mỹ. Trong một buổi họp mặt với bạn bè, thấy một người cầm cuốn nhạc Phạm Duy Ngàn Lời Ca để hát, tôi mê quá xin một cuốn. Lúc đó nó không còn được bán nữa, nên bạn phải đem đi photocopy một bản sao. Như vậy cũng là quí lắm rồi. Tôi cầm về nước, trong những buổi văn nghệ đem ra để đàn cho bạn bè hát. Nhiều người trầm trồ, lại xin một bản copy. Có lẽ đã có trên 10 cuốn này được copy lại (vi phạm bản quyền nặng nề!) Cũng nhờ “bửu bối” này, tôi đâm ra nổi tiếng trong bạn bè là biết nhiều nhạc Phạm Duy.

 

Vào thời điểm đó, hát Nhạc Vàng là một “thời thượng” đối với một số trí thức ở Sài Gòn. Sau bao năm chỉ được hát và nghe nhạc cách mạng, người dân đã quá ngán ngẩm. Nay việc cấm nhạc trước 1975 được nới lỏng, nhiều người mạnh dạn tìm nghe và hát nhạc tình, nhạc bolero, nhạc lính của Miền Nam. Những người biết nhiều Nhạc Vàng thường được thiên hạ ngưỡng mộ. Có lần một thằng bạn dắt tôi đi ăn nhậu với một nhóm doanh nhân thành đạt và văn nghệ sĩ. Một nhà thơ cách mạng khá nổi tiếng, sau khi ngà ngà say cao hứng tuyên bố rằng nếu ai trong bàn tìm được một ca khúc Phạm Duy mà anh không biết, anh sẽ sẵn sàng trả hết chầu nhậu. Thằng bạn hứng chí, nhờ tôi lên tiếng. Chỉ mới hỏi có hai bài, ông nhà thơ này đã “tịt ngòi”, và còn chống chế rằng hai bài này không chắc là của Phạm Duy!

 

Kể lại câu chuyện này để thấy rằng ở Việt Nam thời đó tìm được người nghe cùng gout nhạc là không dễ. Còn cùng mê nhạc Phạm Duy thì lại càng hiếm hoi hơn. Cũng vì thế, tôi trở nên thân thiết với Phi ngay từ lần đầu gặp. Kể từ đó, trong những buổi văn nghệ, Phi thường yêu cầu tôi đệm guitar để hát nhạc Phạm Duy. Nhóm gọi đùa Phi là “nhà Phạm Duy học.” Trước khi hát một ca khúc, Phi thường chậm rãi nói về xuất xứ của ca khúc, Phạm Duy viết năm nào, vì lý do gì, tặng cho ai… Hay có khi chỉ là những suy nghĩ của Phi về những ẩn dụ đằng sau lời bài hát. Phi chỉ bằng hay thua tôi một tuổi, vào trước 1975 chỉ mới bắt đầu tuổi teen; vậy mà không hiểu tại sao kiến thức về âm nhạc Phạm Duy lại có thể phong phú đến như vậy. Với cái giọng Bắc cổ, trầm ấm, mọi người thích thú lắng nghe những “giai thoại Phạm Duy” do Phi kể.

phi tran
Phi Trần ngồi giữa hai người bạn cùng mê nhạc Phạm Duy trong lần gặp cuối cùng ở Sài Gòn vào tháng 3 năm 2025.

 

Phi không phải là ca sĩ, nhưng khi hát nhạc Phạm Duy rất có hồn, truyền cảm. Đệm đàn cho Phi hát nhạc Phạm Duy như được truyền thêm cảm hứng. Hội Ca Cầm có hai người hát Phạm Duy say mê như nhau là K. và Phi. Kể từ khi có thêm Phi, K. bị “dành” bớt một số ca khúc Phạm Duy mà trước đây K. là độc quyền trong những buổi văn nghệ. Phong cách hát nhạc Phạm Duy của hai người bạn này cũng có cá tính riêng. K. hát như lên đồng, thổn thức, kể lể tâm sự với lời hát; trong khi Phi cất giọng khoan thai, trầm tĩnh như kể chuyện. Tôi thích so sánh là K. hát như “cô Thái” (là ca sĩ theo K. hát nhạc Phạm Duy hay nhất), còn Phi hát theo kiểu Thái Hiền.

 

Càng biết nhiều về Phi lại càng thêm quí mến, nể phục. Phi không chỉ biết nhiều nhạc Phạm Duy, mà còn nhiều thể loại nhạc của Miền Nam trước 75. Kiến thức và văn học nghệ thuật của Phi cũng rất rộng; Phi nhớ nhiều bài thơ tiền chiến, tiểu thuyết của văn học Sài Gòn. Nhưng điều làm tôi phục nhất là dù sống với phong cách nghệ sĩ, Phi vẫn là một nhà kinh doanh xuất sắc, thành công ở Việt Nam. Ngày Phi mất, bạn bè chuyền nhau một bài viết trên mạng của tạp chí Harper’s Bazar đăng từ năm 2020 có tựa đề: “Phil Trần – Ceo Của Glass Egg Nói Về Triết Lý Sống Và Làm Việc”. Bài báo mô tả chính xác tính cách của Phi mà tôi được biết trong đời sống tinh thần; và giải thích thêm về những nguyên tắc trong kinh doanh khiến Phi thành công trong vai trò lãnh đạo một doanh nghiệp. Bài báo có đoạn: “…Phil Trần là CEO của Glass Egg. Một công ty chuyên gia công đồ họa cho các game từ khắp nơi trên thế giới. Không bàn đến những chiến lược phát triển doanh nghiệp to tát, tôi ấn tượng nhiều hơn đến việc anh đặc biệt chú trọng văn hóa doanh nghiệp. Tôn chỉ hoạt động của công ty dựa trên bảy từ vàng: Tôn trọng, Tin tưởng, Hiểu biết, Hỗ trợ, Tích cực, Công bằng và Thành thực. Phil Trần tin rằng: Hiểu rõ và rèn luyện mỗi ngày chính là tiền đề cho một môi trường làm việc trong sạch…”

 

Bản thân tôi chưa bao giờ là một người thành công trong kinh doanh. Sống và làm việc ở Việt Nam hơn 30 năm dưới chế độ cộng sản, tôi hiểu rõ việc làm giàu là rất khó khăn, đặc biệt với những người không có thế quyền, những người lấy trung thực làm tôn chỉ kinh doanh. Vậy mà người bạn văn nghệ vẫn vươn lên một cách xuất sắc. Phi không chỉ là một tấm gương, mà còn cho tôi một niềm tin tưởng rằng thương trường dù khốc liệt đến mấy vẫn sẽ có chỗ cho những người tử tế.

 

Giàu có và thành đạt, tôi không bao giờ thấy Phi thể hiện điều đó mỗi khi gặp gỡ hát hò với bạn bè. Không thấy Phi xem tôi có gì khác biệt, chỉ là hai thằng bạn cùng mê nhạc Phạm Duy như nhau. Phi thường xuyên giúp đỡ bạn, và giúp hết lòng. Tôi có một cô cháu gái hồi mới tốt nghiệp đại học ở Sài Gòn muốn được đi làm cho một công ty Mỹ để có cơ hội đi du học, lấy bằng master ở Mỹ. Tôi viết email về nhờ vả. Phi nhận cháu vào làm, bảo cháu có năng lực đặc biệt nên đưa vào vị trí lãnh đạo từ rất sớm. Khi cháu sang Mỹ du học cách đây ba năm, Phi tiếp tục hỗ trợ bằng cách giới thiệu bạn bè kinh doanh ở Mỹ, giúp cháu có cơ hội tìm việc làm và ở lại Mỹ, mặc dù Phi khuyên cháu tốt nghiệp xong nên về Việt Nam làm vì có nhiều cơ hội hơn. Cả gia đình cháu xem Phi là một ân nhân đặc biệt.

 

Gia đình tôi đi định cư ở Mỹ năm 2006, Phi vẫn ở lại Việt Nam vẫn giữ liên lạc. Mỗi lần về Việt Nam, có dịp là tôi lại rủ Phi, K. và một vài người bạn cũ hát hò như ngày xưa. Phi mỗi lần về Mỹ cũng hay gọi tôi đi ăn và trò chuyện. Sau này có dịp làm quen với một số người bạn của Phi ở Mỹ từ vài chục năm trước; tất cả đều nói về Phi đúng như những gì tôi biết về bạn mình. QT nói rằng nhờ Phi mà mình bắt đầu đọc nhiều thơ Xuân Diệu, Huy Cận, Hồ Xuân Hương, Bùi Giáng trong lớp Chemistry thay vì làm lab lúc học high school; nhờ vậy vẫn tiếp tục yêu văn thơ Việt. T. cho biết Phi là bạn học Berkeley năm 1992-1994, sinh hoạt văn nghệ trong Hội Sinh Viên Việt Nam. T có hát song ca với Phi bài Vợ Chồng Quê thuở đó. P. thì nhớ Phi mê nhạc, mê văn, mê thơ, làm cái gì cũng nồng nhiệt.

 

Năm ngoái, Phi về Mỹ, báo là mình đã về hưu. Phi khoe mới mua một cái nhà lớn ở Tampa để về hưu, dưỡng già, và rủ bạn bè chuẩn bị sang chơi. Phi hỏi ý kiến về việc giúp một tổ chức chuyên nghiên cứu và bảo tồn lịch sử VNCH. Về lại Việt Nam, Phi email bảo mình về hưu nên có nhiều thì giờ, hỏi muốn giúp đỡ giới báo chí hải ngoại để duy trì văn học nghệ thuật Việt Nam thì nên làm gì. Tôi nói đang định học làm layout cho Việt Báo. Phi bảo đã từng làm việc này thời sinh viên, nên xung phong làm không công. Phi tự mua cho mình một phần mềm chuyên để layout báo, và chuẩn bị bắt tay vào làm thử.

 

Nhưng rồi… Vô thường ập đến, không chừa một ai, không báo trước…

 

Vào Tháng 11 năm ngoái, Phi báo là vừa đi khám bệnh, và được chuẩn đoán là ung thư dạ dày ở giai đoạn ba, sẽ sang Singapore để điều trị. Phi rất lạc quan, nói là mình đã sống trọn vẹn, cho nên không lo sợ gì về cái chết; sẽ tập trung lo điều trị và hy vọng sẽ vượt qua. Việc layout cho Việt Báo tạm hoãn. Phi còn hứa là Tháng Ba năm nay sẽ về lại Mỹ để dự chương trình sinh nhật 80 của Khánh Ly, và thăm lại bạn bè cũ. Nhưng vào phút chót, Phi báo là không thể về được vì lý do gia đình. Riêng tôi biết đó là điềm báo không hay…

 

Vào cuối Tháng Ba, tôi về Việt Nam, rủ Phi và K. đi ăn trưa. Phi rất gầy, cho biết dù đang hóa trị nhưng ung thư vẫn phát triển, đang chuẩn bị đi Thái Lan để tìm phương pháp điều trị khác. Còn nước, còn tát. Bạn bè gặp Phi hôm đó, ai cũng muốn rớt nước mắt… K. thì vẫn nói câu quen thuộc: “…Nhìn Phi mà đứt ruột…!”

 

Tôi về lại Mỹ đến giữa tháng 5 thì nghe bạn bè nói Phi đã được đưa về nhà để an dưỡng, không chữa trị gì thêm nữa. Đến ngày 2 tháng 6 là nhận tin Phi đã qua đời ở Sài Gòn. Đám tang tổ chức một ngày sau đó. Dù đã chuẩn bị trước, nhưng không khỏi bàng hoàng. Mọi chuyện diễn ra chỉ trong vòng 6 tháng…

 

Tôi có ba người bạn thân nhất trong Hội Ca Cầm, nay đều đã mất. Anh Trần Đại Lộc mất từ năm 1997; anh Thân mất vào năm ngoái; và năm nay là anh Phi. Nhớ hồi anh Lộc mất, chị Q. là một người bạn thân của anh nói rằng: “…đau lòng vì người tốt, dễ mến như Lộc mà lại vắn số…” Nay đối với Phi, tôi cũng nghĩ như vậy. Một người bạn đạt được những điều trong đời mà biết bao người không có. Là một tấm gương sống sao cho ra sống để chết đi không có gì hối tiếc. Là một niềm hy vọng cho sự tử tế vốn ngày càng trở nên xa xỉ ở nước Mỹ mà tôi đang tiếp tục sống.

 

Mà cũng chẳng sao… Rồi ai cũng sẽ đi đến điểm kết của vòng sinh tử luân hồi…

 

Tạm biệt nhé Phi. Nếu đủ duyên, mình sẽ lại gặp nhau, hát hò ở một cõi khác…

 

Doãn Hưng

Ý kiến bạn đọc
09/07/202509:13:09
Khách
Anh Phi ơi, chúc mừng Anh đã có visa đi sớm. Em đang đợi phỏng vấn lần 2. hẹn gặp nhe.
02/07/202515:00:23
Khách
Em nhớ anh nhiều lắm
07/06/202512:58:31
Khách
Cam dong qua!
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.