Hôm nay,  

Những Học Trò “đặc Biệt”

31/08/202509:45:00(Xem: 1850)
YEU_THUONG_LA_TU_DO_BIASACH_Minh Nguyet
Minh họa Đinh Trường Chinh

 


Từ giữa tháng Tám, trước ngày Lễ Labour Day, các trung tâm shopping đã rầm rộ quảng cáo “On Sale” cho mùa “Back To School”. Các con tôi đã lớn, qua rồi cái thuở đi sắm backpacks, tập vở, giấy bút, lunch bags, áo quần, nhưng lòng tôi vẫn nao nao bâng khuâng nhớ về những kỷ niệm ấy. Cũng có lúc tôi lại nh ... chính tôi, ngày xưa là cô giáo trẻ khi còn ở Việt Nam, và nhất là những tháng ngày ở trại tỵ nạn Thailand, làm cô giáo “đặc biệt” có những học trò cũng rất “đặc biệt”.

 

Sau hơn hai năm gian nan đợi chờ, tôi đã may mắn đậu thanh lọc và chuyển về trại Transit chờ định cư. Nơi đây, tôi gặp lại vài Thầy giáo đã từng dạy English cho tôi khi mới nhập trại, họ gọi tôi vào trường ESL, phụ trách lớp English Vỡ Lòng cho người lớn tuổi.

 

Đúng như tên gọi, các “học trò” của tôi đều... lớn tuổi hơn tôi khá nhiều. Có người lớn hơn vài ba tuổi, chục tuổi hoặc hơn vài chục tuổi cũng có, nhờ vậy mà vui lắm! Họ, có khi là những người miền Tây sông nước, nói Tiếng Việt còn chưa rành, nay phải bập bẹ học Tiếng Anh, hoặc những người bận rộn cuộc sống bên Việt Nam, chưa bao giờ nói Tiếng Anh, nay tập hợp vào đây, là học trò của cô giáo trẻ măng . Kiến thức Tiếng Anh họ kém hơn cô giáo, nhưng kinh nghiệm đời, kinh nghiệm sống của họ thì bao la. Đôi lúc rảnh rang, cả lớp chuyển qua mục “Tâm Sự Đời Tôi”, những câu chuyện đời, chuyện thời cuộc đất nước sau 1975, chuyện vượt biển... nghe hoài không bao giờ chán.

 

Trong lớp, có vài học sinh nổi bật, dù là thành tích học tập hay bất cứ lãnh vực nào, cũng làm tôi nhớ nhiều. Đầu tiên là anh Hoàng, một trong những nhiếp ảnh gia ở trại. Lúc ấy, đâu phải ai muốn hành nghề chụp hình cũng được, mà phải “xã giao”, quen biết với ban quản lý trại (người Thái), các nhân vật trong Bộ Nội Vụ Thái (nắm quyền hành cao nhất ở trại) . Người chụp hình, sau khi chụp hình cho các khách hàng là đồng bào tỵ nạn, rồi đem các cuốn phim ra ngoài trại, đi rửa, rồi đem về giao hàng cho khách, tất cả những công việc đó đều do Trại cấp giấy phép đi ra đi vào cổng trại dễ dàng, rồi hàng tháng nộp tiền lệ phí, bao nhiêu thì vẫn là “bí mật nội bộ”.

 

Anh Hoàng, là người được tất cả mọi người xung quanh quý mến. Khác với những người hay “giao lưu” với lính Thái, nhóm điều hành Thái, thường bị người ta nhìn với ánh mắt dè dặt, nhưng Hoàng là người sống chân tình, khiêm nhường, vui vẻ, bản tính rộng rãi và dĩ hòa vi quý .

Hoàng, còn là... đại gia dễ thương. Hễ lớp có buổi liên hoan thì Hoàng luôn mang nhiều bánh trái đến, chụp hình cho cả lớp thoải mái, ai muốn chụp riêng cũng được. Hoàng tận tình hướng dẫn kiểu dáng, địa điểm, góc máy để cho ra những tấm hình đẹp nhứt . Riêng đối với cô giáo Loan, mỗi khi cần chụp hình để gửi cho thân nhân, Hoàng đưa tôi đi khắp trại, đến những nơi có cảnh đẹp, chụp xong, Hoàng luôn đề nghị chụp thêm “chân dung cô giáo” không lấy thêm tiền, Hoàng tặng cô giáo.

 

Anh Hoàng lớn hơn tôi 6-7 tuổi, nên dù là cô giáo, tôi vẫn gọi anh xưng em, nhưng Hoàng rất trân trọng khi gọi cô Loan và xưng tên Hoàng ngọt xớt.

 

Hoàng có cô bé người yêu, tên Minh, rất xinh đẹp, đúng nghĩa “nhỏ bé” cả tuổi tác lẫn dáng người. Hoàng đậu thanh lọc, Minh rớt đang chờ “tái thanh lọc” vì hai người đã kịp có baby, nên chắc chắn Minh nếu không đậu “tái thanh lọc” ở trại, thì cũng sẽ về Việt Nam rồi đoàn tụ với Hoàng theo diện “fiancé có con”.

 

Lúc đó, thằng con trai của Hoàng-Minh mới 6-7 tháng tuổi, mang nét đẹp của bố mẹ, kháu khỉnh, bà con trong lô ai cũng muốn mượn thằng bé đem về nhà ẵm bồng nựng nịu hoặc tha đi khắp trại cho nhiều người nựng ké .Tôi cũng vậy, ngày cuối tuần rảnh rỗi không đi làm, tôi hay ghé qua nhà Hoàng-Minh để nựng thằng nhỏ.

 

Bữa đó chủ nhật, sau bữa cơm trưa, tôi đi lang thang ra quán sữa đậu nành giải khát cái nóng mùa hè, lúc đi ngang qua nhà Hoàng-Minh, thấy Minh đang ru con ngủ trên võng, cửa mở rộng, tôi liền theo thói quen, ghé đầu vào nhìn thằng nhỏ, Minh liền nhờ tôi:

 

-       Ôi chị đến đúng lúc quá, em đang chưa biết tìm ai, chị rảnh không?

-       Ừa, chị rảnh.

-       Vậy chị vào đưa võng ru bé ngủ giùm em nha, em chạy đi tìm anh Hoàng, từ sáng đến giờ ảnh đi nhậu chưa thấy về!

 

Tôi hiểu nỗi lo của Minh. Bởi như đã nói ở trên, Hoàng phải thường xuyên đi ăn nhậu xã giao với lính Thái để công việc chụp hình được êm xuôi thuận lợi. Nhậu thì phải có rượu bia, thuốc lá, về lâu về dài không tốt cho sức khỏe. Nhưng nguy hiểm hơn, là thỉnh thoảng còn có mấy em gái “hậu phương” người Lào, người Cam và người Việt trong trại cũng được các lính Thái mời nhậu chung vui, hỏi sao Minh không lo, không ghen!?

 

Tôi biểu Minh cứ đi tìm chồng, còn tôi bước vào nhà, nằm xuống sàn, ru thằng bé, gió hiu hiu buổi trưa hè, và nhà bên cạnh mở băng nhạc bolero buồn mênh mang,  làm tôi cũng thiu thiu một lúc rồi… ngủ luôn hồi nào không hay. Mãi đến khi nghe tiếng Hoàng - Minh gây lộn, tôi mới sực tỉnh nhưng không dám mở mắt động đậy vì “cuộc chiến” đang rất… gay cấn. Minh bù lu bù loa:

 

-       Anh đã hứa với em biết bao lần, sẽ bỏ bớt rượu chè thuốc lá để giữ gìn sức khỏe...

-       Anh biết mà, nhưng công việc phải thế, anh sẽ cố gắng bớt lại, được chưa?

-       Bớt gì mà bớt! Lần nào về cũng nồng nặc mùi rượu rồi ngủ vùi, đó là chưa kể mấy “em gái” đỏng đảnh tại bàn nhậu, ai tin tưởng được!

-       Xời ơi, em phải hiểu chồng mình chớ! Có cho vàng anh cũng không bao giờ đụng đến mấy nàng đó.

Minh vẫn không tha, vẫn lải nhải càu nhàu, dù Hoàng luôn nhỏ nhẹ năn nỉ và luôn miệng xuýt xoa, nhắc nhở vợ:

-       Xuỵt! Em nói nho nhỏ thôi, để cô Loan ngủ, cô Loan nghe được thì kỳ lắm!!

 

Tôi cười thầm trong bụng, Hoàng đâu biết tôi đã dỏng tai nghe từ lúc “cuộc chiến” vừa... bắt đầu! Tôi đành tiếp tục... ngủ say thêm vài phút nữa, chợt thằng bé giật mình thức giấc, tôi có cớ bật dậy, rồi ẵm thằng nhỏ đi chơi để ba má nó có dịp làm lành với nhau.

 

Trong lớp, còn có anh Tú, thuộc nhóm người “già nhất lớp”, ngồi ở hàng ghế cuối cùng. Anh ấy ít nói, và qua vài chương trình “Tâm Sự Đời Tôi” của lớp, ai cũng biết quê anh miền Trà Vinh, gia đình từng là chủ xưởng đóng ghe, rồi tổ chức nhiều chuyến vượt biên thành công, mấy năm trước là chuyến chót cả gia đình cùng đi nhưng anh bị lọt lại, bây giờ anh mới qua được Thailand. Vừa xong tiết dạy, chị Kiều đồng nghiệp trường ESL gặp tôi, nháy mắt mỉm cười:

 

-       Loan nè, “trò” Tú lớp em...

-       Trò Tú sao hở chị?

-       Trò ấy muốn tặng cô giáo Loan mấy cái bánh Trung Thu nhân mùa Rằm Tháng 8 này, nhưng trò ấy ngại... Vì trò ấy có cảm tình đặc biệt với cô, nên nhờ chị nói trước giùm.

-       Trời! Chị nói trò Tú mang bánh đến cho cả lớp cùng ăn cho vui.

-        

Chị Kiều bây giờ mới nghiêm túc:

 

-       Chị thấy anh Tú cũng được lắm đó, ảnh vừa ra lính chưa đầy năm là bị “giải phóng” 1975, ảnh có tinh thần Quốc Gia, đang sinh hoạt trong nhóm Việt Nam Quốc Dân Đảng ở trại...

-       Thì em có nói gì đâu chị, ai chả biết ảnh dễ thương, mà thôi, chuyện tình cảm cứ để đấy tính sau chị ơi!

     

Đến ngày lớp liên hoan mừng Trung Thu, anh Tú mang đến góp vui hai hộp bánh có đủ bánh nướng và bánh dẻo. Cuối buổi tiệc, tôi chủ động theo anh Tú ra ngoài sân:

 

-       Cám ơn anh Tú đã tặng em một hộp bánh, và tặng lớp một hộp bánh, cả lớp hôm nay thiệt vui.

Anh Tú ngại ngùng:

 

-       Có gì đâu cô! Thú thiệt, nhiều khi tui cũng muốn mời cô đi uống cafe, ăn sáng, nhưng sợ... khoảng cách “Thầy-Trò” nên thôi.

       

Tôi đổi đề tài:

-       Nghe nói anh mới có tên đi Mỹ tuần sau, chúc mừng anh.

-       Ừa, danh sách mới có chiều qua, mà cô cũng đang chờ Mỹ phỏng vấn, phải không? Gia đình tôi cũng ở Texas, nếu có duyên thì chúng mình sẽ gặp lại nhau, nghen cô!

 

Chia tay anh Tú xong, tôi quay vào văn phòng, gặp ngay nụ cười “bí hiểm” của cô Kiều:

-       Ai biểu dạy lớp ESL cho ...người lớn mần chi!? Như chị đây, cứ dạy trẻ em thanh thiếu niên là trái tim tha hồ ngủ yên.

 

Tôi cười lớn:

-       Dạ chị, em xin hứa, nếu có kiếp sau qua trại tỵ nạn, em chỉ đi dạy tiếng Việt tiểu học!

 

Nói đến lớp Việt Ngữ, tôi có một gia đình cả vợ chồng và hai đứa con đều là học trò của tôi. Số là, biết tôi là cô giáo ở Việt Nam, một người bạn nhất quyết rủ tôi vào dạy Tiếng Việt. Tôi nể lời, thế là thời khóa biểu của tôi kín mít mỗi ngày: dạy lớp ESL từ 7 giờ sáng đến 8 giờ sáng, rồi chạy “show” qua trường Việt Ngữ từ 8 giờ cho đến 9 giờ 30 sáng, cuối cùng là chạy qua Văn Phòng Cao Ủy Định Cư làm cho đến 4 giờ chiều (có về nhà nghỉ trưa).

Tại trường Việt Ngữ có 4 khối lớp: Lớp A: Trẻ Mẫu Giáo-lớp 1-2/ Lớp B: Cho trẻ lớp 3-4-5/ Lớp C: Cho học sinh lớp 6- 7-8-9/ và Lớp D: Cho học sinh lớp 10-11-12.

Tôi phụ trách lớp B, tức là lớp 3-4-5, là vào lớp, tùy theo độ tuổi của mỗi em mà dạy Toán theo đúng trình độ, riêng môn Lịch Sử và Văn thì dạy chung.

 

Lớp của tôi, các em tuổi từ 9 đến 12  thiệt là dễ thương, tôi được làm đúng chuyên môn giảng dạy, đúng sở trường được đào tạo nên tha hồ tung hoành với các em nơi môi trường tỵ nạn. Trong lớp có hai anh em thằng Lụm và con Đẹp, lanh lợi y chang như ba má nó là anh chị Hải, là học trò lớp ESL của tôi.

 

Họ là dân miền quê Kiên Giang, qua trại là “con bà phước” tức là không có thân nhân nước ngoài viện trợ, nên họ buôn bán hàng rong, với mâm chuối chiên, chuối nướng bọc nếp chan nước dừa.

 

Chiều hôm đó tôi đang đi lang thang kiếm đồ ăn vặt, từ xa thấy chị Hải đang đứng chống nạnh đôi co với bạn hàng bên cạnh. Anh Hải đứng kế bên cố ngăn cản vợ, nhưng chị càng giận dữ:

 

-       Tui nói cho nghe, đi qua trại là để định cư xứ phương tây, chứ không phải sống chết nơi này, nên đừng có mà tranh giành bon chen, đừng chơi xấu với tui.

 

Công bằng mà nói, chị Hải lanh lợi, là người biết trước biết sau, trong lớp học không gây hấn, mất lòng bất cứ ai. Chị và chồng rất siêng học, có khi buổi tối gần giờ giới nghiêm, tôi đi dạo trong trại, ngang qua nhà thấy anh chị thắp đèn làm bài tập, chị bảo cả ngày lo buôn bán nên chỉ có ban đêm mới rảnh học bài. Nay thấy chị đang vì miếng cơm manh áo mà gây lộn, tôi chẳng hiểu ất giáp gì, tính bỏ đi hướng khác thì thằng Lụm con Đẹp nhìn thấy tôi, chúng khoanh tay cúi đầu chào, rồi la lớn:

-       Má ơi, má ơi, cô giáo tới kìa!!!

  

Ai ngờ, câu nói đó lại có tác dụng ngay lập tức, anh Hải khỏi phải ra sức ngăn cản, chị liền dừng cuộc cãi vã, quay qua tôi, dịu giọng: “Cô giáo ngồi chơi! Ăn chuối nướng hen?!” nhưng vẫn không quên quăng cho “đối thủ” câu cuối: “Nay có cô giáo nên tui bỏ qua, lần sau đừng trách tui!”.

 

Suốt buổi ngồi tiếp tôi ăn, chị Hải phân bày lý do sự xung đột, là vì chị bị ép uổng nhiều quá, không nhịn được nữa. Nhìn mồ hôi lấm tấm trên khuôn mặt chị, thỉnh thoảng cười mắc cỡ, y chang như nụ cười hồi Tết, vợ chồng chị gói bánh tét bán, tôi đặt mua hai cái cúng giao thừa. Đến khi tôi ghé lấy, chị tặng tôi thêm 1 cái, nói là “gia đình học trò tết riêng cô giáo”. Tôi dứt khoát không nhận, lấy thêm tiền ra đưa, chị cũng dứt khoát không chịu, giằng qua kéo lại, cuối cùng tôi bèn lấy tiền đó lì xì cho thằng Lụm con Đẹp chị mới cười bẽn lẽn chịu thua.

 

Vậy đó, những học trò “đặc biệt” một thời của tôi, mỗi khi nhớ lại là cảm xúc dâng tràn vì những ân tình chúng tôi dành cho nhau nơi mảnh đất tạm dung ấy.

 

Tôi vô cùng biết ơn truyền thống “tôn sư trọng đạo” của dân tộc, tổ tiên mình để lại, mà câu “nhất tự vi sư, bán tự vi sư” đã in sâu trong giao tiếp của bao thế hệ người Việt Nam, cụ thể là người VNCH. Thế nên ở trại, dù có học trò lớn tuổi, họ vẫn trân trọng gọi tôi là “cô” xưng “em” hoặc xưng  “tui” ngọt ngào thân mến. Còn các em trong lớp Việt Ngữ thì khỏi nói, chúng sợ cô giáo một phép, dù chỉ là lớp học tỵ nạn, vì vẫn có mấy bà má ông bố hồn nhiên nói với tôi:

 

-       Nó mà hư, cô cứ thoải mái guýnh nó giùm tui nha!

 

Edmonton, Tháng 9/2025

KIM LOAN

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.