Hôm nay,  

Thả gió bay đi nghìn trùng

30/09/202514:53:00(Xem: 1654)
Nghìn Trùng Xa Cách

Nghìn trùng xa cách người đã đi rồi

Còn gì đâu nữa mà khóc với cười

  

Ca từ và lời thơ có những đồng điểm. Về mặt sáng tác, ngôn ngữ thơ và ca khúc có thể sử dụng từ lời nói thường ngày, ngôn ngữ bình dân lên đến ngôn ngữ cao cấp như ngôn ngữ văn học và triết học. Ngôn ngữ có khả năng thể hiện qua hiện thực, siêu thực, ấn tượng, tượng trưng hoặc một dạng độc đáo sáng tạo nào khác của tác giả.

Dĩ nhiên, có nhiều bài thơ với lời lẽ và ý tưởng dễ dàng phổ nhạc, thường là thơ tình và không quá cao trong cấp bậc văn học. Ngược lại, nhiều bài nhạc có ca từ có thể trở thành bài thơ và không phải là bài thơ khó. Nói một cách khác, giữa lời thơ và ca từ có một vùng giao thoa, nhưng phần còn lại của thơ thì mênh mông.

Một điểm nhấn khác, ca từ luôn bị giới hạn bởi cấu trúc âm giai của câu nhạc và cấu trúc tổng thể của ca khúc, một loại cấu trúc không có nhiều lựa chọn. Ca từ bị gò bó hơn lời thơ, nhất là thơ tự do. Tuy nhiên, vì bị giới hạn trong cấu trúc âm giai và giai điệu, ca từ có cơ hội biến chuyển ngoạn mục như ca từ của Trịnh Công Sơn hoặc thủ thuật chữ nghĩa như ca từ của Phạm Duy:

“Ta ghì cho tan vỡ trái tim này / Cho người ăn chơi nhíu đôi lông mày … “ Vũ Nữ Thân Gầy. Lời Phạm Duy.

Chữ “ghì” và chữ “nhíu” thật là ấn tượng, thậm chí, làm cho người đọc thấy được hình ảnh cử động.

 

Tuy nhiên, lời thơ không phải là văn xuôi, thơ có tiết tấu và nhịp điệu, kể cả thơ thự do. Những bài thơ có nhịp điệu êm ả và tiết tấu trầm bổng theo luật bằng trắc, nhất là thơ tình, thường rất dễ phổ nhạc, dễ gây cảm tình với người nghe.

Có thể thấy rõ, thơ tình của Du Tử Lê rất dễ phổ thành nhạc vì đã có sẵn âm điệu, giai điệu và ý tưởng dễ nắm bắt. Do đó, có người tuyên bố Du Tử Lê có hơn 300 bài thơ phổ nhạc. Trong khi thơ của Thanh Tâm Tuyền chỉ được dùng vài câu bởi những nhạc sĩ thành danh hàng đầu như Cung Tiến và Phạm Đình Chương. Thơ Tô Thùy Yên chỉ được phổ nhạc bài Ta Về và bài Chiều Trên Phá Tam Giang, nhạc sĩ Trần Thiện Thanh chỉ phổ nhạc phần sau của bài thơ. Có chút gì khó hiểu phải không?

Đi sâu vào nghiên cứu sẽ nhận ra, thơ càng sâu sắc về ý tưởng, càng trình bày không nhạc điệu, càng khó phổ thành nhạc. Vì vậy, ca từ ít khi đi vào cõi văn học cao và triết lý đậm. Kể cả ca từ của Bob Dylan (Nobel Prize 2016) và của Leonard Cohen, dù được xem là dẫn đầu trong lãnh vực ca từ triết học.

Nhạc sĩ Việt thường có trình độ nhạc lý, nghệ thuật sáng tác nhạc cao hơn trình độ sáng tác ngôn ngữ theo giai điệu. Chúng ta có rất nhiều ca khúc nhạc rất hay nhưng ca từ không tương xứng. Vì khả năng ngôn ngữ giới hạn, nhạc sĩ nỗ lực tìm lời ráp vào âm giai cho nên lời lẽ không suôn, không trơn, sai dấu, không đúng nghĩa, hoặc câu này qua câu kia như người đầu sông, kẻ cuối sông. Mượn thơ làm ca từ phổ nhạc trở thành phổ thông trong giới làm nhạc mà gặp khó khăn khi sáng tác ca từ.

Phạm Duy là một trong số nhạc sĩ đặt lời thành công từ bình dân đến cao kỳ cho ca khúc do ông sáng tác, do ông dịch hoặc viết lời cho nhạc ngoại quốc. Trình độ nghệ thuật ngôn ngữ và khả năng nhạy cảm với ngôn từ của ông có khi còn cao hơn những người làm thơ chỉ để làm thơ. Phạm Duy là người sáng tác lời hay, có ý nghĩa và quan trọng là thể hiện được cảm xúc trong giai điệu và tinh thần của ca khúc.

“Nghìn Trùng Xa cách,” một ca khúc tôi cho là hoàn tất về nhạc lẫn ca từ. Có thể xác nhận, đây là một bài thơ tình đầy đủ cảm xúc và trí tuệ, được xây dựng trên ba đoạn, theo cách văn học, gọi là ba mảnh. Không theo cấu trúc của ca khúc, ví dụ như A,B,A’ mà theo tâm sự ký ức và ý nghĩ, ba mảnh rời tạo nên tổng thể.

Đoạn một:

Nghìn trùng xa cách người đã đi rồi

Còn gì đâu nữa mà khóc với cười

Mời người lên xe về miền quá khứ

Mời người đem theo toàn vẹn thương yêu

Đứng tiễn người vào dĩ vãng nhạt mầu

Sẽ có chẳng nhiều đớn đau

Nối gót người vào dĩ vãng nhiệm mầu

Có lũ kỷ niệm trước sau

Vài cánh xương hoa nằm ép trong thơ

Rồi sẽ tan đi mịt mù

Vạt tóc nâu khô còn chút thơm tho

Thả gió bay đi mịt mù

 

Đoạn Hai:

Nghìn trùng xa cách người đã đi rồi

Còn gì đâu nữa mà giữ cho người...

Trả hết về người chuyện cũ đẹp ngời

Chuyện đôi ta buồn ít hơn vui

Lời nói, lời cười

Chuyện ngắn chuyện dài

Trả hết cho người, cho người đi

Trả hết cho ai ngày tháng êm trôi

Đường em đi trời đất yên vui

Rừng vắng ban mai, đường phố trăng soi

Trả hết cho người, cho người đi

Trả hết cho ai cả những chua cay

Ngày chia tay, lặng lẽ mưa rơi

Một tiếng thương ôi, gửi đến cho người

Trả nốt đôi môi gượng cười

 

Đoạn kết:

Nghìn trùng xa cách đời đứt ngang rồi

Còn lời trăn trối gửi đến cho người...

Nghìn trùng xa cách người cuối chân trời

Đường dài hạnh phúc, cầu chúc cho người

 

Không có đoạn mở đầu. Phạm Duy bước ngay vào thân bài bằng hai mảnh, có thể coi như hai bài thơ khác nhau, cùng nói về mối tình xa cách nhìn trùng.

 

Mảnh Một.

Phạm Duy vẽ lên một bức tranh hồi tưởng về người yêu với những hình ảnh lãng mạn và thơ mộng, tạo ra cảm giác êm ái cho người thưởng ngoạn và tâm tình đồng cảm với những mối tình đẹp trong quá khứ.

Những tứ thơ biểu tượng như:

Mời người lên xe về miền quá khứ / Đứng tiễn người vào dĩ vãng nhạt màu / Nối gót người vào dĩ vãng nhiệm mầu.

Một luận lý hết mực văn chương. Tính lý luận đã mất hẳn trong cái đẹp của thơ. Điều này chứng minh rằng, trong thơ không chỉ có nhạc, thơ có lý luận (logic) riêng và lý luận này rất khác biệt với lý luận của trí tuệ. Lý luận của thơ là lý luận thẩm mỹ.

Với ba câu này thôi, chúng ta hoàn toàn trở về quá khứ, mơ màng với tình nhân xa xôi.

Vài cánh xương hoa nằm ép trong thơ

Có lẽ, hầu hết chúng ta đã từng ép vào trang vở học trò những bông hoa cành lá kỷ niệm. Thời thơ mộng ấy, lúc nào nhớ lại cũng chạnh lòng. Rồi thời gian qua, thời học trò vùi vào quên lãng. Bỗng một hôm, lục tìm quá khứ, mở cuốn vở xưa, thấy hoa lá cũ chỉ còn là bộ xương khô, thấm máu vào trang giấy trắng, lâu quá rồi, nhạt thành màu nâu lợt lạt. Cảm giác lúc đó, làm sao mà diễn tả. Tất cả những rung động về kỷ niệm, những xúc động về một ai kia, sẽ ngui dần. Rồi cuối cùng, hết sức hư huyền, chúng ta đành “Thả gió bay đi mịt mù.”

 

Mảnh Hai.

Nếu theo dõi giai điệu và hiệu quả sáng tác, chúng ta thấy, nhạc sĩ mở đầu mảnh một trong giọng C Major, tạo một dòng nhạc mượt mà, êm dịu, tạo một không khí lâng lâng nhớ nhung, không quá buồn bã.

Sau khi lập lại, nhắc lại câu “Nghìn trùng xa cách người đã đi rồi “ Ông nối cái không khí nhẹ nhàng tiếc nuối kia vào một khí hậu khác, trầm lắng hơn, gợi cảm hơn, pha thêm màu buồn với những ca từ trực tiếp chạm vào dĩ vãng bằng giọng C Minor, sau khi, “Còn gì đâu nữa mà giữ cho người.” Thật tài tình.

Ký hiệu “Trả hết” được lập lại năm lần với nghĩa đen gần như muốn dứt khoát với người tình xưa. Tuy nhiên, ở nghĩa ngụ ý, “trả hết” chỉ là một cách nói đau lòng của người không thể nào trở lại quá khứ, không thể nào gần gũi bên người tình dĩ vãng. Trả lại là một cách diễn tả “tiếc nuối mà không biết làm sao”. Vì không thực sự dứt khoát, không thực sự trả lại, cho nên vào lúc cuối, mới “Còn lời trăn trối gửi đến cho người.”

Những câu thơ trong mảnh hai từ “Trả hết về người” trở đi, chúng ta không thấy ẩn dụ, không biểu tượng, chỉ là lời lẽ tâm sự. Mặc dù văn vẻ nhưng thành thật và cảm xúc. Nhất là câu “Đường em đi trời đất yên vui”, nghĩ đến đời sống của người tình xưa giờ đang hạnh phúc với người khác, còn mình thì “Rừng vắng ban mai,” đường phố chỉ còn trăng soi. Có lẽ lòng sẽ chùng xuống, thoáng một chút bóng ghen. 

Hai câu cuối của mảnh hai, nhạc sĩ thật tài tình từ câu”Một tiếng thương ôi, gửi đến cho người” từ giọng buồn thảm, từ ca từ than xót “thương ôi” trong C Minor đột ngột trở về C Major, từ tâm sự buồn bã, vọng lên một thoáng bình tĩnh hơn “Trả nốt đôi môi gượng cười.” Lời tài hoa mà nhạc cũng tài hoa. 

Từ “trả hết” ông đổi sang “trả nốt” tức là trả thêm. Hình ảnh “đôi môi gượng cười,” làm nhẹ nhàng tâm trạng đang ưu tư. Nếu người nghe đang chìm đắm trong những lời nhạc buồn gợi lên trong lòng mỗi người nghe những hình ảnh đẹp của người tình đã không còn hy vọng, sẽ chợt tỉnh dậy với âm điệu Major và hình ảnh gượng cười. Điều sung sướng của những hình ảnh này là dù thời gian dài bao lâu, dù người nghe già bao nhiêu, hình ảnh người tình vẫn trẻ trung, đẹp mãi với thời gian.

 

Mảnh kết.

Vẫn giọng Major, ông đi vào đoạn kết, lập lại, “Nghìn trùng xa cách” nhưng đoạn lìa với “đời đứa ngang rồi.” Nhưng đẹp nhất, khuây khỏa nhất là câu cuối “Đường dài hạnh phúc, cầu chúc cho người.”  Phạm Duy phong lưu, tuy vậy chẳng những ông có tấm lòng với phụ nữ, với âm nhạc, ông còn có tấm lòng với nước non.

Ca khúc “Nghìn Trùng Xa cách” có lẽ sẽ tồn tại với người hát, với lịch sử âm nhạc Việt. Cho dù mai sau, không còn ai hát nữa, nhưng chắc chắn nếu còn con người thì còn nhìn trùng xa cách.  

 

Ngu Yên.
Houston. Tháng 8, 2025

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.