Cơn sốt dầu hỏa sẽ còn ám ảnh chúng ta cho đến hết Hè. Sau đó, sẽ ám ảnh ông Bush...
Giá dầu thô trên thị trường New York đã vượt 44 đô la một thùng vì những lý do nhất thời, nhưng sẽ chưa hạ vì những lý do dài hạn hơn.
Nhất thời là vụ tập đoàn Yukos của Liên bang Nga bị đe dọa xập tiệm sau khi người cầm đầu là tỷ phú Mikhail Khordorkovsky bị bắt (hồi tháng 10 năm ngoái) và bị đưa ra tòa vì tội gian thuế. Tin Yukos có thể đóng cửa được loan hôm 28 đã khiến thị trường dầu hỏa lên cơn sốt vì nhật lượng của Yukos là hơn hai triệu thùng dầu thô.
Vụ này chưa nguôi thì đến lượt Mỹ lên cơn sốt cuối tuần qua vì mối nguy khủng bố tấn công các trung tâm tài chánh trong lãnh thổ. Giữa hai vụ đó là nỗi bất an về Saudi Arabia, một nuớc sản xuất và xuất cảng dầu lớn nhất thế giới.
Đó là những lý do nhất thời khiến giá dầu chờn vờn trên mức 40 đô la, cao hơn biên độ 22-28 mà các nước OPEC đã đề ra từ năm ngoái. Tổ chức các quốc gia xuất cảng dầu thô đã tính là cao hơn mức này thì kinh tế thế giới bị suy trầm, có khi suy thoái, thấp hơn thì họ bị thiệt nên muốn điều tiết nhật lượng trong biên độ tốt đẹp ấy. Bây giờ, khi giá dầu đã vượt mức tối đa 28 dự tính, OPEC có thể làm gì" Không làm gì được, vì họ đã bơm tối đa, mức tối đa chưa từng thấy từ 25 năm qua. Nói cách khác, số cung đã lên đến tối đa mà giá không giảm. Làm gì được hơn bây giờ"… Mà vì sao lại như vậy"
Chúng ta hãy nói đến lý do dài hạn hơn: quy luật cung cầu khiến giá dầu phải tăng. Hai nền kinh tế đang hút dầu mạnh nhất là Hoa Kỳ và Trung Quốc đã khiến giá dầu tăng quá định mức của OPEC. Trong hoàn cảnh đó, bất ổn tại Nga và nhất là nguy cơ khủng hoảng tại Mỹ đã đẩy giá thêm gần 10 đô la một thùng, gọi là bảo phí vì rủi ro. Đó là chuyện hiện tại và quá khứ.
Bây giờ, nhìn vào tương lai thì có những yếu tố gì có thể chi phối giá dầu"
Trước mắt là chuyện Yukos, dài ngày hơn một chút là tình hình Saudi Arabia, sau đó là Iraq. Sau nữa là nạn suy trầm của nhiều nền kinh tế sẽ đánh sụt số cầu.
Về vụ Yukos, một số cổ đông của công ty muốn gây khó cho chính quyền Putin: vì vụ xử án Khodorkovsky mà thế giới, nhất là Âu châu, bị tai nạn dầu hỏa. Nhưng Putin không hiền lành, và nhiều công ty khác cũng nhân khi Yukos bị họa mà nhảy vào mở rộng thị phần, vì vậy, dầu thô của Nga sẽ còn chảy, và đó là tin mừng cho kinh tế Âu châu.
Về tình hình Saudi Arabia, chế độ Hoàng gia Saudi vẫn còn vững, và al-Qaeda không dại gì mà giết con gà đẻ trứng vàng, nên sẽ không tấn công các giếng dầu Saudi. Khủng bố chỉ muốn tấn công các chuyên gia hay nhân viên Tây phương làm việc tại đây, để đuổi họ chạy và cô lập chế độ Hoàng gia. Thành công hay không, ta chưa biết vì còn phải đợi sau Hè, khi nhân viên Tây phương nghỉ hè xong quay về đó làm việc. Họ mà bị tấn công liên tiếp và cuốn gói bỏ chạy, thị trường dầu thô sẽ lại lên cơn sốt trên đỉnh cao hiện nay.
Đứng thứ nhì sau Saudi Arabia trong danh mục sản xuất và xuất cảng chính là Iraq.
Xứ này có thể xuất cảng mỗi ngày hơn hai triệu thùng, và đã sẵn sàng làm chuyện ấy để kiếm tiền tái thiết, nhưng khủng bố cũng sẵn sàng phá hoại, như đã làm từ ít lâu nay, mới nhất là vào mùng ba vừa qua. Chính quyền Bush, Chính phủ Lâm thời Iraq và người dân Iraq nói chung đều muốn Iraq bơm thêm dầu, nhưng cũng chẳnh là bao nhiêu, hơn hai triệu thùng một ngày mà thôi. Nếu Iraq ổn định, phải vài ba năm nữa hệ thống dầu khí của xứ này mới thực sự được tân trang để có xuất lượng lớn hơn.
Trong khi chờ đợi, OPEC bị kẹt, không xứ nào có khả năng bơm thêm dầu để nới giá thị trường. Venezuela chẳng hạn, thì vẫn ở mé bờ khủng hoảng và còn chờ kết quả vụ trưng cầu dân ý ngày 15 này là có truất phế Tổng thống Hugo Chavez hay không. Ngoài OPEC, các nước sản xuất và xuất cảng dầu cũng không khá hơn.
Nếu vậy, đâu là hy vọng"
Trước hết, qua mùa Hè của các nước ở Bắc bán cầu (đa số là các nước công nghiệp), số cầu về dầu hỏa có thể giảm chút ít. Sự sút giảm đó có giải tỏa được mối lo vì những tin xấu trên thế giới hay không, chưa ai biết.
Hy vọng thứ hai là… nỗi tuyệt vọng của các nước tiêu thụ dầu tại Đông Á, nhất là Trung Quốc.
Nếu kinh tế Hoa Lục phải hãm đà tăng trưởng thì số cầu sẽ chững, nếu lại bị suy sụp vì không hạ cánh an toàn mà hạ cánh nặng nề, số cầu có thể sụt mạnh. Cùng trong mạch đó, nhiều nước Đông Á cũng có thể bị suy trầm và số cầu sút giảm sẽ nới giá dầu. Trước mắt, khi Mỹ kim đã hết sụt giá (mà dầu khí được mua bán bằng Mỹ kim), Đông Á, nhất là Việt Nam, đang gặp rủi ro là vừa bị trì trệ vừa bị lạm phát (stagflation, stagnation đi cùng inflation, xin tạm dịch là "trì phát"). Chuyện đó mà xảy ra, số cầu về dầu khí sẽ giảm, giá dầu sẽ hết tăng. Kẻ khóc người cười là như vậy.
Sau khi kiểm điểm một vòng nhân thế thì người ta có thể kết luận là trong vài ba tháng tới, giá dầu vẫn chờn vờn trên đỉnh 40, lạc quan lắm thì ở quanh mức trung bình của sáu tháng vừa qua là 38 đô la một thùng.
Từ hơn 30 năm qua, thế giới đã bị suy sụp kinh tế vì chấn động dầu hỏa. Lần đầu khi OPEC dùng dầu thô làm võ khí và mở ra cuộc phong tỏa cuối năm 1973 làm giá dầu tăng gấp bốn. Lần hai là khi Iran có loạn, gọi là Cách mạng, năm 1979, làm giá dầu tăng gấp ba. Hai vụ chấn động đó làm kinh tế thế giới bị suy thoái và lạm phát. Lần thứ ba, vào năm 1990 vì vụ Iraq tấn công Kuweit đưa tới chiến tranh vùng Vịnh, giá dầu tăng làm kinh tế Mỹ suy trầm, dù nhẹ hơn suy thoái thì cũng đủ làm Tổng thống Bush (cha) thất cử năm 1992.
Lần này thì sao"
Từ giá 25 đồng năm ngoái, dầu thô hiện đã vượt 40 đồng, tăng hơn 60%. Đảng Dân chủ tất nhiên là rất vui với những tin buồn về kinh tế, vì có lý cớ tấn công chính quyền Bush. Giá dầu tăng 60% tất là tin buồn. Nhưng, nhìn trong dài hạn thì tình hình đó chưa nguy kịch cho kinh tế Mỹ. Ông Bush chỉ có thể bị đe dọa nếu giá dầu tăng quá 50 đồng một thùng và cứ lửng lơ trên đỉnh cao đó trong nhiều tháng liền. Nhưng, lúc đó, Hoa Kỳ đã qua bầu cử rồi. Kết luận ở đây là trừ một vụ đột biến về khủng bố trong vài tuần tới, giá dầu dầu thô dù rất cao như hiện nay vẫn không kịp ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả tranh cử. Còn có trăm ngày nữa thôi!
Nhưng sẽ khiến Hội đồng Dự trữ Liên bang của Alan Greenspan không thấy có lý do tăng lãi suất. Là chuyện sẽ nói về sau….
Giá dầu thô trên thị trường New York đã vượt 44 đô la một thùng vì những lý do nhất thời, nhưng sẽ chưa hạ vì những lý do dài hạn hơn.
Nhất thời là vụ tập đoàn Yukos của Liên bang Nga bị đe dọa xập tiệm sau khi người cầm đầu là tỷ phú Mikhail Khordorkovsky bị bắt (hồi tháng 10 năm ngoái) và bị đưa ra tòa vì tội gian thuế. Tin Yukos có thể đóng cửa được loan hôm 28 đã khiến thị trường dầu hỏa lên cơn sốt vì nhật lượng của Yukos là hơn hai triệu thùng dầu thô.
Vụ này chưa nguôi thì đến lượt Mỹ lên cơn sốt cuối tuần qua vì mối nguy khủng bố tấn công các trung tâm tài chánh trong lãnh thổ. Giữa hai vụ đó là nỗi bất an về Saudi Arabia, một nuớc sản xuất và xuất cảng dầu lớn nhất thế giới.
Đó là những lý do nhất thời khiến giá dầu chờn vờn trên mức 40 đô la, cao hơn biên độ 22-28 mà các nước OPEC đã đề ra từ năm ngoái. Tổ chức các quốc gia xuất cảng dầu thô đã tính là cao hơn mức này thì kinh tế thế giới bị suy trầm, có khi suy thoái, thấp hơn thì họ bị thiệt nên muốn điều tiết nhật lượng trong biên độ tốt đẹp ấy. Bây giờ, khi giá dầu đã vượt mức tối đa 28 dự tính, OPEC có thể làm gì" Không làm gì được, vì họ đã bơm tối đa, mức tối đa chưa từng thấy từ 25 năm qua. Nói cách khác, số cung đã lên đến tối đa mà giá không giảm. Làm gì được hơn bây giờ"… Mà vì sao lại như vậy"
Chúng ta hãy nói đến lý do dài hạn hơn: quy luật cung cầu khiến giá dầu phải tăng. Hai nền kinh tế đang hút dầu mạnh nhất là Hoa Kỳ và Trung Quốc đã khiến giá dầu tăng quá định mức của OPEC. Trong hoàn cảnh đó, bất ổn tại Nga và nhất là nguy cơ khủng hoảng tại Mỹ đã đẩy giá thêm gần 10 đô la một thùng, gọi là bảo phí vì rủi ro. Đó là chuyện hiện tại và quá khứ.
Bây giờ, nhìn vào tương lai thì có những yếu tố gì có thể chi phối giá dầu"
Trước mắt là chuyện Yukos, dài ngày hơn một chút là tình hình Saudi Arabia, sau đó là Iraq. Sau nữa là nạn suy trầm của nhiều nền kinh tế sẽ đánh sụt số cầu.
Về vụ Yukos, một số cổ đông của công ty muốn gây khó cho chính quyền Putin: vì vụ xử án Khodorkovsky mà thế giới, nhất là Âu châu, bị tai nạn dầu hỏa. Nhưng Putin không hiền lành, và nhiều công ty khác cũng nhân khi Yukos bị họa mà nhảy vào mở rộng thị phần, vì vậy, dầu thô của Nga sẽ còn chảy, và đó là tin mừng cho kinh tế Âu châu.
Về tình hình Saudi Arabia, chế độ Hoàng gia Saudi vẫn còn vững, và al-Qaeda không dại gì mà giết con gà đẻ trứng vàng, nên sẽ không tấn công các giếng dầu Saudi. Khủng bố chỉ muốn tấn công các chuyên gia hay nhân viên Tây phương làm việc tại đây, để đuổi họ chạy và cô lập chế độ Hoàng gia. Thành công hay không, ta chưa biết vì còn phải đợi sau Hè, khi nhân viên Tây phương nghỉ hè xong quay về đó làm việc. Họ mà bị tấn công liên tiếp và cuốn gói bỏ chạy, thị trường dầu thô sẽ lại lên cơn sốt trên đỉnh cao hiện nay.
Đứng thứ nhì sau Saudi Arabia trong danh mục sản xuất và xuất cảng chính là Iraq.
Xứ này có thể xuất cảng mỗi ngày hơn hai triệu thùng, và đã sẵn sàng làm chuyện ấy để kiếm tiền tái thiết, nhưng khủng bố cũng sẵn sàng phá hoại, như đã làm từ ít lâu nay, mới nhất là vào mùng ba vừa qua. Chính quyền Bush, Chính phủ Lâm thời Iraq và người dân Iraq nói chung đều muốn Iraq bơm thêm dầu, nhưng cũng chẳnh là bao nhiêu, hơn hai triệu thùng một ngày mà thôi. Nếu Iraq ổn định, phải vài ba năm nữa hệ thống dầu khí của xứ này mới thực sự được tân trang để có xuất lượng lớn hơn.
Trong khi chờ đợi, OPEC bị kẹt, không xứ nào có khả năng bơm thêm dầu để nới giá thị trường. Venezuela chẳng hạn, thì vẫn ở mé bờ khủng hoảng và còn chờ kết quả vụ trưng cầu dân ý ngày 15 này là có truất phế Tổng thống Hugo Chavez hay không. Ngoài OPEC, các nước sản xuất và xuất cảng dầu cũng không khá hơn.
Nếu vậy, đâu là hy vọng"
Trước hết, qua mùa Hè của các nước ở Bắc bán cầu (đa số là các nước công nghiệp), số cầu về dầu hỏa có thể giảm chút ít. Sự sút giảm đó có giải tỏa được mối lo vì những tin xấu trên thế giới hay không, chưa ai biết.
Hy vọng thứ hai là… nỗi tuyệt vọng của các nước tiêu thụ dầu tại Đông Á, nhất là Trung Quốc.
Nếu kinh tế Hoa Lục phải hãm đà tăng trưởng thì số cầu sẽ chững, nếu lại bị suy sụp vì không hạ cánh an toàn mà hạ cánh nặng nề, số cầu có thể sụt mạnh. Cùng trong mạch đó, nhiều nước Đông Á cũng có thể bị suy trầm và số cầu sút giảm sẽ nới giá dầu. Trước mắt, khi Mỹ kim đã hết sụt giá (mà dầu khí được mua bán bằng Mỹ kim), Đông Á, nhất là Việt Nam, đang gặp rủi ro là vừa bị trì trệ vừa bị lạm phát (stagflation, stagnation đi cùng inflation, xin tạm dịch là "trì phát"). Chuyện đó mà xảy ra, số cầu về dầu khí sẽ giảm, giá dầu sẽ hết tăng. Kẻ khóc người cười là như vậy.
Sau khi kiểm điểm một vòng nhân thế thì người ta có thể kết luận là trong vài ba tháng tới, giá dầu vẫn chờn vờn trên đỉnh 40, lạc quan lắm thì ở quanh mức trung bình của sáu tháng vừa qua là 38 đô la một thùng.
Từ hơn 30 năm qua, thế giới đã bị suy sụp kinh tế vì chấn động dầu hỏa. Lần đầu khi OPEC dùng dầu thô làm võ khí và mở ra cuộc phong tỏa cuối năm 1973 làm giá dầu tăng gấp bốn. Lần hai là khi Iran có loạn, gọi là Cách mạng, năm 1979, làm giá dầu tăng gấp ba. Hai vụ chấn động đó làm kinh tế thế giới bị suy thoái và lạm phát. Lần thứ ba, vào năm 1990 vì vụ Iraq tấn công Kuweit đưa tới chiến tranh vùng Vịnh, giá dầu tăng làm kinh tế Mỹ suy trầm, dù nhẹ hơn suy thoái thì cũng đủ làm Tổng thống Bush (cha) thất cử năm 1992.
Lần này thì sao"
Từ giá 25 đồng năm ngoái, dầu thô hiện đã vượt 40 đồng, tăng hơn 60%. Đảng Dân chủ tất nhiên là rất vui với những tin buồn về kinh tế, vì có lý cớ tấn công chính quyền Bush. Giá dầu tăng 60% tất là tin buồn. Nhưng, nhìn trong dài hạn thì tình hình đó chưa nguy kịch cho kinh tế Mỹ. Ông Bush chỉ có thể bị đe dọa nếu giá dầu tăng quá 50 đồng một thùng và cứ lửng lơ trên đỉnh cao đó trong nhiều tháng liền. Nhưng, lúc đó, Hoa Kỳ đã qua bầu cử rồi. Kết luận ở đây là trừ một vụ đột biến về khủng bố trong vài tuần tới, giá dầu dầu thô dù rất cao như hiện nay vẫn không kịp ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả tranh cử. Còn có trăm ngày nữa thôi!
Nhưng sẽ khiến Hội đồng Dự trữ Liên bang của Alan Greenspan không thấy có lý do tăng lãi suất. Là chuyện sẽ nói về sau….
Gửi ý kiến của bạn



