Hôm nay,  

Ông Hồ Mấy Vợ?

14/09/200600:00:00(Xem: 10164)

(Bài 1)

Lời nói đầu:  Sau khi các báo đăng bài viết của tôi nhan đề “Sự thành lập đảng Cộng Sản Đông Dương”, thì có một độc giả tự nhận là du học sinh Việt Nam, đã e-mail hỏi tôi về việc gia đình và vợ con của Hồ Chí Minh.  Câu hỏi nầy trùng với đề tài một bài báo tôi đã viết và đăng trên Thế Kỷ 21 ở California gần mười năm trước.  Tôi hiệu đính và đăng lại bài nầy, hy vọng để cung cấp cho các bạn trẻ thêm một số thông tin về đời sống Hồ Chí Minh mà trong nước cấm kỵ và bưng bít.

Một người đến tuổi trưởng thành, lập gia đình là chuyện bình thường.  Hồ Chí Minh là một con người như mọi người.  Do đó, nếu Hồ Chí Minh lấy vợ thì không có gì đáng nói.  Tuy nhiên, bản thân Hồ Chí Minh cũng như đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) luôn luôn xưng tụng ông Hồ là một người chỉ nghĩ đến việc phục vụ đất nước nên không có thời giờ lập gia đình, và không có vợ con.  Sự thật không phải như thế.  Tài liệu cho thấy rằng ít nhất ông Hồ đã bốn lần lấy vợ.

1.-   TĂNG TUYẾT MINH, NGƯỜI VỢ ĐẦU

Tháng 10-1924, Nguyễn Ái Quốc, tên của ông Hồ thời mới qua Liên Xô, rời Moscow đi Vladivostok (Hải Sâm Uy), hải cảng cực đông Liên Xô, trên bờ biển Thái Bình Dương.  Từ đây, ông đáp tàu thủy, xuống tới Quảng Châu khoảng giữa tháng 11-1924, với bí danh Lý Thụy, một công dân Trung Hoa, làm thư ký kiêm thông ngôn trong phái đoàn cố vấn Borodine (Liên Xô) bên cạnh chính phủ Tôn Dật Tiên ở Quảng Châu, trong giai đoạn liên minh quốc cộng lần thứ nhất ở Trung Hoa.

Trong thời gian sống tại Quảng Châu, ngoài những hoạt động chính trị, Lý Thụy (Nguyễn Ái Quốc), Uỷ viên Đông phương bộ của Đệ tam Quốc tế Cộng sản (ĐTQTCS), đã kết hôn với một nữ đảng viên CSTH là Tăng Tuyết Minh (1905-1991) ngày 18-10-1926.  Lễ kết hôn diễn ra tại nhà hàng Thái Bình ở trung tâm thành phố Quảng Châu với sự hiện diện của các bà Đặng Dĩnh Siêu (vợ ông Chu Ân Lai), Bào La Đình, Thái Sướng.  Hai người chia tay khi chiến tranh Quốc Cộng bùng nổ ngày 12-4-1927.(1)  Lý Thụy trốn đi Vũ Hán, đến Thượng Hải, theo đường biển lên Vladivostok (Hải Sâm Uy), qua Moscow khoảng giữa tháng 6 năm 1927. 

Cuối năm 1927, Lý Thụy (Nguyễn Ái Quốc) được ĐTQTCS chuyển qua hoạt động ở Tây Âu một thời gian ngắn, rồi đến Ý.  Tại đây, ông được gởi qua Xiêm La (Thái Lan) và ông đến Xiêm tháng 8-1928.  Trong thời gian họat động ở Xiêm La, Lý Thụy có gởi cho Tăng Tuyết Minh một lá thư bằng chữ Nho, bị mật thám Pháp phát hiện ngày 14-8-1928, nên thư không đến tay người nhận(2)

Vào tháng 5-1950, nhìn thấy hình Hồ Chí Minh trên Nhân Dân Nhật Báo (Trung Hoa), bà Tăng Tuyết Minh gởi nhiều lá thư cho ông Hồ, thông qua đại sứ Việt Minh ở Bắc Kinh là Hoàng Văn Hoan, nhưng đều không được trả lời.  Sau năm 1954, bà Tăng Tuyết Minh xin qua Hà Nội gặp Hồ Chí Minh, cũng bị từ chối.(3) 

Nhà cầm quyền cộng sản Hà Nội phủ nhận mối quan hệ giữa Lý Thụy và Tăng Tuyết Minh.  Họ cho rằng nếu lá thư có thật, chẳng qua là Lý Thụy thường thông tin với các đồng chí dưới dạng thư tình để qua mặt giới tình báo của các nước tại Quảng Châu, Trung Hoa.  Sự phản bác nầy không hữu lý, vì chú ý đọc kỹ lá thư với lời lẽ rất thân thiết lãng mạn (muội, huynh, tình thâm), thì không thể là thư liên lạc bình thường.

Sau đây là lá thư Lý Thụy gởi cho Tăng Tuyết Minh do Nha Liêm Phóng (Công an) Đông Dương phát hiện ngày 14-8-1928:

"Dữ muội tương biệt,

Chuyển thuấn niên dư,

Hoài niệm tình thâm,

Bất ngôn tự hiểu.

Từ nhân hồng tiện,

Dao ký thốn tiên,

Tỷ muội an tâm,

Thị ngã da vọng.

Tịnh thỉnh nhạc mẫu vạn phúc.

Chuyết huynh Thụy."

Tạm dịch:

"Cùng em chia tay nhau,

Thấm thoát nháy mắt đã hơn năm,

Nhớ nhung tình sâu,

Không nói cũng tự biết.

Nay nhân gởi tin hồng nhạn,

Xa xôi gởi lá thư mang tấm lòng,

Mong em yên tâm,

Là điều anh trông ngóng.

Cũng xin vấn an nhạc mẫu vạn phúc.

Người anh vụng về Thụy."(4)

2.-   NGUYỄN THỊ MINH KHAI, NGƯỜI ĐỒNG CHÍ

Nguyễn Thị Minh Khai tên thật là Nguyễn Thị Vịnh, sinh năm 1910 tại Vinh (Nghệ An), con ông Nguyễn Huy Bình, nhân viên hỏa xa, và là chị của Nguyễn Thị Quang Thái, vợ đầu của Võ Nguyên Giáp.  Minh Khai học trường tiểu học Pháp Nam ở Vinh.  Năm 1928, Minh Khai gia nhập Tân Việt Cách Mạng Đảng, sau đó qua đảng Cộng Sản Đông Dương, và sang Hồng Kông hoạt động năm 1930.(5)

Ở Hương Cảng, tại trụ sở chi nhánh Bộ Đông Phương của Quốc tế cộng sản,  hằng ngày, vào buổi sáng, Minh Khai học chính trị do Lý Thụy đích thân truyền dạy.  Từ đó nẩy sinh tình cảm nam nữ giữa hai người.(6) Tháng 4-1931, Minh Khai bị bắt ở Hương Cảng, đến đầu năm sau thì được thả ra.  Trong khi đó, Lý Thụy cũng bị bắt ngày 6-6-1931 tại Cửu Long (Kowloon), gần Hương Cảng, rồi bị trục xuất đầu năm 1933.  Lý Thụy qua Quảng Châu, lên Thượng Hải, đáp tàu đi Vladivostok, rồi đến Moscow trong cùng năm đó.

Ngày 25-7-1935, tại Moscow khai mạc Đại hội cộng sản quốc tế.  Phái đoàn đảng Cộng Sản Đông Dương do Lê Hồng Phong dẫn đầu gồm Lê Hồng Phong, Quốc, Kao Bang, Minh Khai và hai đại biểu khác từ Nam Kỳ và Ai Lao đến.(6)

Khi đến Moscow, Minh Khai khai báo lý lịch là đã có chồng, và mở ngoặc tên chồng là Lin.  Lin là bí danh của Nguyễn Ái Quốc lúc đó.(7)  Cũng theo nguồn tài liệu nầy, những phiếu ghi nhận đồ đạc trong phòng riêng hai người tại nhà ở tập thể của các cán bộ cộng sản cũng đều ghi hai vợ chồng Minh Khai, Lin cùng chung phòng, chung giường, chung đồ dùng...(8)

Theo lời con gái của bà Vera Vasilieva (bà nầy là một nhân viên người Nga trong tổ chức Quốc tế Cộng sản), kể cho nhà nữ sử học Sophia Quinn Judge (Hoa Kỳ), được ông Thành Tín viết lại trong sách Về ba ông thánh, thì trong thời gian diễn ra Đại hội nầy, ông Lin (tức Lý Thụy) hay ghé lại nhà bà Vera Vasilieva thăm, và thường đi cùng với một phụ nữ Việt Nam tên là Phan Lan.  Phan Lan là bí danh của Nguyễn Thị Minh Khai dùng khi ở Moscow.(8)

Sau Đại hội, Minh Khai ở lại Liên Xô và học ở Viện thợ thuyền Đông phương tức trường Stalin đến tháng 2-1937. Trong thời gian nầy, Quốc bị giữ lại Liên Xô và cũng học ở Viện thợ thuyền Đông phương.  Năm 1938, Minh Khai qua Pháp, về Sài Gòn.  Hai năm sau (1940), Khai bị bắt, bị lên án tử hình, và bị bắn tại Hóc Môn năm 1941.

Theo tài liệu của đảng CSVN, Nguyễn Thị Minh Khai là vợ của Lê Hồng Phong (tức Lê Huy Doãn), và có với Phong một người con gái tên Lê Thị Hồng Minh, sinh năm 1939.  Trước khi làm vợ Lê Hồng Phong, những tài liệu trong tờ khai lý lịch và những câu chuyện do bà Sophia Quinn Judge đưa ra, cho thấy một thời Minh Khai đã là vợ của Nguyễn Ái Quốc tức Hồ Chí Minh. 

Nhà báo Thành Tín còn đi xa hơn nữa khi đặt câu hỏi biết đâu tên Minh (trong Hồ Chí Minh) là kỷ niệm về Minh  Khai"  Ngoài ra ông Hồ còn lấy tên là T. Lan để viết một quyển sách tự truyện tựa đề là Vừa đi đường vừa kể chuyện.  Cũng theo tác giả Thành Tín, có thể chữ Lan cũng lấy từ Phan Lan, bí danh của Minh Khai khi ở Moscow.(8) 

3.-   ĐỖ THỊ LẠC LÀ AI"

Sau Đại hội Moscow ngày 25-7-1935, Lê Hồng Phong (1902-1942) được QTCS gởi về nước Việt Nam hoạt động, còn Nguyễn Tất Thành (hay Lý Thụy, Nguyễn Ái Quốc) ở lại hay bị giữ lại ở Liên Xô cho đến năm 1939, Thành được gởi về Trung Hoa dưới một tên mới là Hồ Quang, điều khiển ban Hải ngoại đảng Cộng Sản Đông Dương.

Đầu năm 1940, Lê Hồng Phong bị bắt ở Phan Thiết, đưa vào Sài Gòn, bị đày đi Côn Đảo rồi chết ở ngoài đó năm 1942.  Trong khi đó, cuối năm 1940, Nguyễn Tất Thành bắt đầu sử dụng thông hành mang tên Hồ Chí Minh, ký giả của một tờ báo do Cộng Sản Trung Hoa điều khiển.(9)

Vào đầu năm 1941, Hồ Chí Minh về nước, đặt căn cứ ở hang Pắc Bó, châu Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng.  Sau khi củng cố nội bộ, huấn luyện đảng viên, phát triển cơ sở, và tổ chức Hội nghị trung ương đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ 8 (tháng 5-1941), đưa Trường Chinh Đặng Xuân Khu (1909-1988) lên làm Tổng bí thư, Hồ Chí Minh qua Trung Hoa tiếp tục hoạt động, đánh phá các cơ sở cách mạng không cộng sản, và kiếm cách xin Trung Hoa viện trợ.  Cuối tháng 8-1942, Hồ bị chính quyền Trung Hoa Quốc Dân Đảng bắt giữ đến tháng 9-1943.(10) 

Ra khỏi tù, Hồ luôn luôn kiếm cách lấy lòng các tướng quân Trung Hoa ở Liễu Châu như Trương Phát Khuê, Tiêu Văn.  Lúc bấy giờ, phía Trung Hoa đang có sự hợp tác quốc cộng lần thứ hai để chống Nhật.  Tướng Tiêu Văn theo phương thức đó áp lực các tổ chức cách mạng Việt Nam hợp nhất với nhau. 

Dầu bị Việt Nam Quốc Dân Đảng và Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội (Việt Cách) phản đối, Tiêu Văn vẫn cho tiến hành Đại hội tại  Liễu Châu ngày 28-3-1944 gồm đại biểu của tất cả các tổ chức chính trị Việt Nam.  Các phe phái không cộng sản và cộng sản tranh luận gay gắt, nhưng cuối cùng cũng bầu ra được một ban chấp hành mới gồm có bảy uỷ viên chính thức, một uỷ viên dự khuyết là Hồ Chí Minh, và ba uỷ viên giám sát.(11)

Trong danh xưng mới, Hồ khéo léo ẩn mình, rất được Tiêu Văn tin cậy.  Hồ đề nghị Tiêu Văn cho mình về nước cùng một số cán bộ đã được Trung Hoa huấn luyện, đem theo súng đạn, thuốc men và tiền bạc.  Tiêu Văn đồng ý cho Hồ về Việt Nam với 18 cán bộ vừa mới tốt nghiệp khóa huấn luyện quân sự Đại Kiều (gần Liễu Châu), cọng thêm 76.000 quan kim, tài liệu tuyên truyền, bản đồ quân sự và thuốc men, nhưng không cấp vũ khí.  Hồ về tới Pắc Bó (Cao Bằng) vào gần cuối năm 1944.

Trong số 18 cán bộ theo Hồ về nước lần nầy, có Đỗ Thị Lạc tức "chị Thuần".  Nhân thân của Đỗ Thị Lạc không được rõ ràng, chỉ biết rằng vào năm 1942, khi tướng Quốc Dân Đảng Trung Hoa là Trương Phát Khuê tổ chức lớp huấn luyện chính trị và quân sự cho các tổ chức cách mạng Việt Nam ở Đại Kiều (gần Liễu Châu), Đỗ Thị Lạc theo học lớp truyền tin. 

Khi về Pắc Bó, Đỗ Thị Lạc sống chung với họ Hồ một thời gian, lo dạy trẻ em và vận động vệ sinh ăn ở của dân chúng ở Khuổi Nậm gần Pắc Bó.  Sử gia Trần Trọng Kim, trong sách Một cơn gió bụi  cho biết Đỗ Thị Lạc đã có một người con gái với Hồ Chí Minh.(12)

Do tình hình biến chuyển, Hồ rời Pắc Bó đầu năm 1945 qua Trung Hoa, bắt liên lạc và hợp tác với tổ chức OSS (Office of Strategic Services), tức Sở Tình báo Chiến lược (Hoa Kỳ) dưới bí danh là Lucius vào tháng 3-1945.(13)   Đầu tháng 5-1945, Hồ về Việt Nam, ghé Khuổi Nậm (Cao Bằng) thăm Đỗ Thị Lạc một thời gian ngắn, rồi đi Tân Trào (Tuyên Quang), và bị cuốn hút vào những biến chuyển lịch sử sau đó.

Chuyện tình giữa Hồ với Đỗ Thị Lạc, cũng như với Nguyễn Thị Minh Khai, Tăng Tuyết Minh đều bị đảng CSVN giấu nhẹm, nên sau đó không còn dấu vết gì nữa. (Còn nữa)

TRẦN GIA PHỤNG

(Toronto, Canada)

CHÚ THÍCH

1.Hoàng Tranh (Huang Zheng), “Hồ Chí Minh với bà vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh”, đăng trên tạp chí Đông Nam Á Tung Hoành (Trung Hoa) tháng 11-2001. Báo Diễn Đàn, Paris, số 121, tháng 9-2002 dịch đăng lại, tt. 17-20.

2.Daniel Hémery, Ho Chi Minh, de l ' Indochine au Vietnam [Hồ chí Minh, từ Đông Dương đến Việt Nam], Paris: Nxb. Gallimard, 1990, tr. 145.

3. Hoàng Tranh, bđd.

4. Daniel Hémery, sđd. tr. 145.  Báo Tuổi Trẻ  của Thành đoàn Thanh niên CSHCM thành phố Hồ Chí Minh (tức Sài Gòn cũ) đã trích đăng lại tài liệu của Daniel Hémery trong số báo ngày 18-5-1991.  Tổng biên tập báo nầy lúc đó là bà Kim Hạnh liền bị kiểm điểm và bị mất chức.

5. Chính Đạo, Việt Nam niên biểu nhân vật chí, Văn Hóa, Houston, Texas, 1997, tr. 380.

6. Thành Tín, Về ba ông thánh, 1995, California, tr. 150-151.  Thành Tín dựa vào danh sách trong một lá thư từ văn phòng cộng sản ở Hồng Kông gởi về Moscow ghi danh sáu đại biểu trong phái đoàn Đông Dương về dự đại hội của cộng sản quốc tế năm 1935.  Kao Bang là Hoàng Văn Nọn tức Tú Huy hay Văn Tân.

7. Chính Đạo, sđd. tr. 380.  Thành Tín, sđd. tr. 151.

8. Thành Tín, sđd. tr. 136, 151-152.  Từ giả thiết nầy, phải chăng có thể chữ  T. viết tắt từ  chữ "Thương".  T. Lan có nghĩa là "Thương Lan".  Ngoài ra chữ "Minh" cũng có thể phát xuất từ tên bà Tăng Tuyết Minh "

9. Chính Đạo, sđd. tr. 161.  Theo Ban Nghiên cứu Lịch sử đảng CSVN, Thành mang tên Hồ Chí Minh từ ngày 13-8-1942, nhưng theo tác giả King C. Chen (Trung Hoa), trong sách Vietnam and China, 1938-1954, Princeton Univ Press, Princeton, 1969, tt. 56-57, thì Hồ Chí Minh bị bắt năm 1942 tại Liễu Châu vì một giấy thông hành đã quá hạng được cấp năm 1940 mang tên Hồ Chí Minh.

10. Chính Đạo, sđd. tr. 283.

11. Chính Đạo, sđd. tr. 301.  Bảy uỷ viên chính thức là: Trương Bội Công, Trương Trung Phụng (QĐD), Trần Báo (QĐD), Bồ Xuân Luật (Phục Quốc), Nghiêm Kế Tổ (QĐD), Lê Tùng Sơn (Giải Phóng, Côn Minh), và Trần Đình Xuyên. Ba uỷ viên giám sát là: Nguyễn Hải Thần (Đồng Minh Hội), Vũ Hồng Khanh (QĐD), và Nông Kính Du (Phục Quốc).

12. Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, Sài Gòn, 1969, tr. 75.

13.  Tiếng Latin, Lucius là tên đàn ông, Lucia là tên phụ nữ; cả hai do chữ "Lux" mà ra.  "Lux" nghĩa là "ánh sáng", có thể bắt nguồn từ chữ “Quang” hoặc chữ “Minh” đều gần nghĩa với ánh sáng.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trường trung tiểu học tư thục mang tên Thích Nhất Hạnh School of Interbeing sắp mở cửa tại vùng Escondido Nam California. Mục đích của trường là không chỉ giảng dạy kiến thức phổ thông, mà còn chú ý hướng dẫn đời sống tinh thần; để các em học sinh sau này có thể vừa thành công trong nghề nghiệp, vừa có khả năng chế tác hạnh phúc cho chính mình, cho gia đình và cho cộng đồng xã hội.
Tại văn phòng Dân Biểu Trí Tạ Địa Hạt 70 số 14361 Beach Blvd, Westminster CA 92683 vào lúc 5 giờ chiều Thứ Năm ngày 11 tháng 12 năm 2025, Dân Biểu Trí Tạ đã tổ chức buổi tiệc Mừng Giáng Sinh 2025. Tham dự buổi tiệc ngoài một số quý vị dân cử, đại diện dân cử trong các Thành Phố thuộc địa hạt 70 và vùng Orange County, một số đại diện các hội đoàn, đoàn thể, các cơ quan truyền thông và rất đông cư dân và đồng hương cự ngụ trong Địa Hạt 70.
Tại nhà hàng Diamond Seafood Palace 3 vào lúc 11 giờ trưa Chủ Nhật 14 tháng 12 năm 2025, Liên Nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật và Tiếng Thời Gian do nhà văn Việt Hải đồng sáng lập và điều hành đã tổ chức tiệc mừng Giáng Sinh, đây là một sinh hoạt truyền thống của nhóm liên tục trong 10 năm qua cứ mỗi mùa Giáng Sinh về Liên nhóm đều tổ chức họp mặt để cùng nhau mừng Lễ Giáng Sinh đồng thời cũng là dịp để cùng nhau ôn lại những kỷ niệm vui, buồn trong một năm qua.
Tại Chánh Điện Tu Viện Đại Bi, Thành Phố Westminster, Hội Đuốc Tuệ đã tổ chức buổi hướng dẫn về đề tài: "Giáo Dục Trong Gia Đình và Giao Tiếp - Ứng Xử Chánh Niệm” do Tiến Sĩ Bạch Xuân Phẻ hướng dẫn. Một buổi chiều Chủ Nhật an lành, Tu Viện Đại Bi đón chào rất đông hành giả, phụ huynh, anh chị em Gia Đình Phật Tử, và những người quan tâm đến nghệ thuật giáo dục chánh niệm trong gia đình. Bầu không khí trang nghiêm nhưng gần gũi mở ra ngay từ khoảnh khắc bước vào chánh điện: ba pho tượng Phật vàng tỏa sáng, hoa sen hồng tươi thắm, và nụ cười hiền hòa của đại chúng khiến tâm người dự tự nhiên được lắng dịu. Tất cả tạo nên một nhân duyên tuyệt đẹp cho buổi pháp thoại “Giáo dục trong gia đình & Giao tiếp – Ứng xử Chánh niệm” do Tiến sĩ Bạch Xuân Phẻ (Tâm Thường Định) hướng dẫn.
Cựu Đại tá Vũ Văn Lộc vừa qua đời hôm 29/11/2025 tại San Jose ở tuổi 92. Ông là một cựu sĩ quan của Quân lực Việt Nam Cộng hòa với gần nửa thế kỷ hoạt động cộng đồng ở California, lâu hơn bất cứ ai mà tôi được biết. Ông Vũ Văn Lộc, cùng với các ông Hồ Quang Nhật, Lại Đức Hùng, Nguyễn Đức Lâm là thành phần nòng cốt của Liên hội Người Việt Quốc gia miền Bắc California từ cuối thập niên 1980, phối hợp tổ chức Hội Tết Fairgrounds, là sinh hoạt văn hóa truyền thống lớn nhất của miền Bắc California, mỗi năm thu hút vài vạn lượt người tham dự.
Một buổi Lễ Vinh Danh và Tri Ân các Hội Đoàn, các Tổ Chức, các Tập Thể đã góp phần xây dựng cộng đồng Việt Nam vùng Hoa Thịnh Đốn trong 50 năm qua vừa được tổ chức bởi Cộng Đồng Việt Nam vùng Washington D.C, Maryland, Virginia (CĐVN DMV) vào ngày Chủ Nhật 7/12/2025, tại hội trường của Hội Thánh Tin Lành Giám Lý Việt Mỹ, Arlington, VA.
Hội viên đủ điều kiện có thể lấy hẹn để được chụp nhũ ảnh miễn phí tại Trung Tâm Cộng Đồng Monterey Park vào ngày 16 tháng 12, hoặc Trung Tâm Cộng Đồng Westminster vào ngày 17 tháng 12, bằng cách liên lạc với phòng Dịch Vụ Hội Viên của chúng tôi. Ngoài ra, tầm soát ung thư vú cũng là một trong những dịch vụ đủ điều kiện nhận thưởng trong chương trình Phần Thưởng Khuyến Khích Chăm Sóc Phòng Ngừa của Clever Care. Do đó, hội viên tham gia các sự kiện chụp nhũ ảnh kể trên cũng sẽ được thưởng $25 vào thẻ quyền lợi linh hoạt của họ để sử dụng cho các sản phẩm và dịch vụ sức khỏe. Đến tham gia chụp nhũ ảnh tại các trung tâm cộng đồng này, hội viên cũng có thể hòa mình vào không khí ấm cúng mùa lễ với các hoạt động vui nhộn như làm thủ công, đàn hát, chụp ảnh, và thưởng thức đồ ăn uống nhẹ tại đây.
Mấy ai đã quen biết nhà văn/nhà thơ Trịnh Y Thư mà không đồng ý một điều: anh luôn hết lòng với chữ nghĩa, với văn hữu và với nghệ thuật. Vì vậy chẳng ai ngạc nhiên khi đến với chương trình ra mắt sách “Theo Dấu Thư Hương-II” chiều thứ Bảy vừa qua đúng giờ, mà Coffee Factory đã chật không còn ghế ngồi. Và buổi chiều thứ Bảy bận rộn ngoài kia như không ảnh hưởng gì đến không khí sinh hoạt bên trong, khi trên tay mỗi người đến tham dự đều thấy cầm cuốn sách mới được tác giả ký, cùng những cuộc trò chuyện rôm rả thân tình.
Tu Viện Huyền Không (Chùa A Di Đà cũ), hiện do Thầy Thích Tánh Tuệ làm Viện Chủ và Thầy Thích Tuệ Giác trụ trì, cùng Hội Từ Thiện Trái Tim Bồ Đề Đạo Tràng (Bodhgaya Heart Foundation), đã liên tục tổ chức nhiều đợt cứu trợ đồng bào miền Trung chịu nạn bão lụt. Để tiếp tục công cuộc từ thiện, một tâm thư kêu gọi được gửi đến quý đồng hương và Phật tử như sau: Như quý vị đã biết, trong những ngày qua, các cơn bão và mưa lũ nối tiếp nhau, gây thiệt hại nặng nề: nhiều người chết, mất tích, bị thương; nhà cửa, cơ sở sinh sống bị tàn phá; đời sống đồng bào miền núi phía Bắc và miền Trung bị đảo lộn, khốn đốn vì nước lũ và giông lốc.
Westminster chủ yếu là một thành phố của người di dân. Người dân tin rằng việc vinh danh một nhân vật chính trị tầm quốc gia vốn tai tiếng với những phát biểu mạnh mẽ chống lại các chính sách nhập cư sẽ gửi đi một thông điệp sai lệch về việc ai mới thực sự thuộc về nơi này. Khó hiểu hơn nữa là bốn nghị viên bỏ phiếu cho quyết định này đều là những người sanh ra ở nước ngoài, di cư từ Việt Nam tới Mỹ sau khi Sài Gòn thất thủ.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.