Hôm nay,  

Cuộc Chiến Vẫn Tiếp Diễn

21/02/200800:00:00(Xem: 8704)

Cuộc bầu cử sơ bộ của đảng Dân Chủ (ĐDC) đang tiến tới một tình trạng chưa từng xảy ra trong lịch sử Hoa Kỳ.  Trong các cuộc bầu cử sơ bộ trước kia, thường thì chỉ vài ba tiểu bang đầu, ứng cử viên tổng thống đã được chọn.  Nhưng kỳ này thì rất khác.  Cho đến nay ĐDC chỉ còn 18 tiểu bang và lãnh thổ, nhưng họ vẫn chưa thể nhận diện được ai sẽ là ứng cử viên tổng thống kỳ này.

 Cả hai ứng cử viên thuộc ĐDC: thượng nghị sĩ (TNS) Hillary Clinton của tiểu bang New York và TNS Barrack Obama của tiểu bang Illinois vẫn còn vận động gay go ở những tiểu bang còn lại.  Ngày 4 tháng 3 tới đây rất quan trọng vì dó là ngày bầu cử sơ bộ của một số tiểu bang trong đó có 2 tiểu bang lớn là Texas và Ohio.

Theo sự phỏng đoán của đài truyền hình CNN: nếu TNS Obama vẫn tiếp tục thắng TNS Hillary Cliton tất cả những tiểu bang và lãnh thổ còn lại, nhưng cũng vẫn với tỷ số tương tự như từ trước tới giờ-khoảng 60%/40%-thi` cuối cùng cuộc tranh cử sơ bộ vẫn bất phân thắng bại.  ĐDC áp dụng quy luật bầu cử sơ bộ theo hệ thống tỷ số, nghĩa là số đại biểu (ĐB) sẽ được phân phối theo phần trăm số cử tri mà ứng cử viên đã đạt được.  Có 2 loại ĐB: loại thứ nhất gọi là đại biểu cử tri (ĐBCT) (pledged delegate).  Đây là những đại biểu mà ứng cử viên chiếm được từ những phân bộ đảng ở các tiểu bang.  Loại thứ nhì gọi là siêu đại biểu (SDDB) (superdelegate).  Đây là những viên chức cao cấp trong đảng như các TNS, các hạ nghị sĩ (HNS), các thống đốc, v.v..  Mỗi SDDB tương đương với khoảng 10,000 cử tri.  Tổng số ĐB trong ĐDC là 4049 ĐB: 3253 ĐBCT và 796 SDDB.  Để thắng cuộc bầu cử sơ bộ, ứng cử viên phải chiếm được 2025 ĐB.  

 Cho đến thứ hai 18 tháng 2, 2008 TNS Obama chiếm được 1102 ĐBCT và 160 SDDB, tổng số là 1262 ĐB.  TNS Clinton chiếm được 978 ĐBCT và 235 SDDB, tổng cộng là 1213.  Cả hai chỉ cách nhau 49 ĐB!  Theo những con số trên thì cho đến nay vẫn còn 1173 ĐBCT và 383 SDDB vẫn chưa trao cho ai cả.

Sở trường của TNS Obama là lối diễn thuyết có thể khuấy động giới trẻ.  Lối diễn thuyết này rất giống Martin Luther King, Jr..  Chủ trương của TNS Obama là sự đổi mới.  Chỉ mới có 47 tuổi, TNS Obama đã khiến giới trẻ cảm thấy gần gũi và cảm thông.  Ông nói lên những gì mà giới trẻ đang khao khát.  Đã đến lúc Washington cần một khuôn mặt mới, một sinh khí mới, một phương hướng mới, và những hy vọng mới.  Chính vì thế đa số cử tri bầu cho TNS Obama là giới trẻ.  Nếu Al Gore tượng trưng cho sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật thì Barrack Obama tượng trưng cho sự đổi mới.  Dĩ nhiên người Mỹ gốc Phi Châu hoàn toàn bầu cho ông.  Qua bao nhiêu lần cố gắng, đây là lần đầu tiên họ có một ứng cử viên gốc Phi Châu có thể tiến xa đến như vậy.  Jesse Jackson, Al Sharpton chưa hề có thể dẫn đầu trong bất kỳ cuộc bầu cử sơ bộ nào, huống hồ chi là đã hơn quá nửa đường.

Nhưng TNS Obama cũng không hoàn toàn chiếm được lòng mọi người trong ĐDC.  Nên nhớ ông chỉ thắng 60%.  Phần cử tri còn lại đã bầu cho TNS Clinton.  Đa số là phụ nữ và những người thuộc giới trung lưu (middle class).  Họ là những người mất mát nhiều nhất dưới thời chánh phủ Bush.  Chánh sách xuất cảng việc làm (outsource) đã khiến bao nhiêu việc làm lương cao biến mất trên nước Mỹ.  Giá xăng tăng hơn gấp đôi khiến vật giá leo thang.  Lương thì không tăng, thậm chí nhiều khi còn bị cắt giảm khiến cuộc sống nhiều gia đình trung lưu trở nên eo hẹp, khốn đốn.  Thêm vào đó, cuộc khủng hoảng địa ốc hiện đang lan tràn khắp nơi khiến rất nhiều gia đình trung lưu phải mất nhà mất cửa. 

Giới trung lưu là giới thiệt thòi nhất trong xã hội Mỹ.  Ước chừng khoảng 80% thuế mà chánh phủ thâu được là từ giới trung lưu, nhưng họ lại được hưởng ít quyền lợi nhất.  Tiền thuế an sinh xã hội (social security contribution) họ đóng là để cấp dưỡng cho những người hưu trí hiện nay.  Họ không được hưởng bất cứ một quyền lợi y tế nào của chánh phủ cả.  Một quyền lợi duy nhất mà họ có thể nhận được là tiền thất nghiệp (unemployment benefit).  Không những thế, giới này đang trở nên ít dần đi.  Nhiều người từ giới hạ trung lưu (lower middle class) đã bị rơi xuống trở thành giới nghèo  khó (lower class).  Nếu dười thời tổng thống (TT) Bill Clinton có nhiều ngừời từ giới trung lưu trở thành triệu phú nhất, thì dưới thời TT Bush có nhiều người từ giới trunh lưu biến thành giới nghèo khó nhất.

Đây có thể là một trong những lý do giới trung lưu dồn phiếu cho bà Hillary Clinton.  Có lẽ họ nghĩ rằng bà sẽ có chánh sách phục hồi và phát triển kinh tế tương tự như chồng bà; và đương nhiên, ủy ban kinh tế của chánh phủ bà sẽ bao gồm những chuyên gia từ chánh phủ Bill Clinton.

Như vậy thì quan điểm giữa TNS Obama và TNS Clinton có gì khác biệt"  Họ khác nhau ở hai điểm quan trọng: bảo hiểm sức khỏe (healthcare) và Iraq.

TNS Clinton chủ trương thiết lập hệ thống bảo hiểm sức khỏe công cộng (universal healthcare) tương tự như các nước công nghiệp tiên tiến như Gia Nã Đại, Anh Quốc, Pháp, Thụy Điển, Uc Đại Lợi, v.v..   TNS Obama thì không tiến xa đến như thế mà chỉ tuyên bố sẽ làm giảm giá bảo hiểm sức khỏe khiến nhiều người nghèo sẽ có được bảo hiểm.

Nếu ai đã hay đang làm việc ở Hoa Kỳ cũng đều hiểu được rằng giá bảo hiểm sức khoẻ khấu trù hàng tháng gia tăng trong vòng 5 năm nay như thế nào.  Bây giờ không ai dám chọn các chương trình PPO mà chỉ có thể chịu nổi các chương trình HMO.  Và ai cũng thừa hiểu HMO nó khổ sở như thế nào.  Giá co-pay mỗi lần gặp bác sĩ cứ tăng dần, từ $10 rồi $15, có khi lên đến $25.  Mỗi lần muốn gặp bác sĩ chuyên môn phải xin phép hãng bảo hiễm, có khi dây dưa đến cả tháng.  Sự gia tăng giá bảo hiểm cũng là một gánh nặng cho các công ty, nhất là những công ty nhỏ cỡ dưới 100 nhân viên.  Vấn đề nan giải này đã khiến nhiều công ty nhỏ phải sa thải nhân viên, có khi phải đóng cửa.  Về phía nhân viên, nếu ai mà đang ở trong khoảng tuổi trên 50 thì rất có nhiều cơ hội họ sẽ bị sa thãi.  Lý do là vì năng xuất họ sẽ kém đi, lương họ cũng khá cao, và một điểm quan trọng nữa là bảo hiểm sức khỏe của họ sẽ rất mắc.  Mà nếu họ bị sa thãi thì họ sẽ không có bảo hiểm sức khoẻ gì cả.  Họ không thể nào cưu mang nổi một chương trình COBRA vì nó rất là mắc.  Họ vẫn chưa đủ 65 tuổi để xin Medicare.  Nếu trong thời gian này mà họ có chuyện gì về sức khỏe thì họ chỉ đành phải chịu vậy.

Hãy thử tưởng tượng một hệ thống bảo hiểm sức khoẻ công cộng.  Tất cả công dân hay thường trú dân đều có thể xử dụng hệ thống y tế do chánh phủ đài thọ.  Dù cho ai có việc làm hay không, họ vẫn được bảo đảm dịch vụ y tế.  Về phía các công ty, họ không cần phải trả tiền bảo hiểm cho nhân viên khiến họ dễ dàng lựa chọn nhân viên.  Chánh phủ sẽ chi phí chương trình này bằng thuế do dân đóng góp.  Điều này có nghĩa là chánh phủ sẽ tăng thuế.  Hiện nay thuế lợi tức của một gia đình trung lưu ở Mỹ là khoảng trên dưới 30%.  Nếu chánh phủ áp dụng kế hoạch này, rất có thể thuế sẽ tăng lên 40%.  Phe chống kế hoạch này sẽ viện lý do tăng thuế để dọa dân chúng.  Ở Mỹ, khi nghe tăng thuế thì ai cũng hoảng sợ, và các chính khách thường xuyên dùng phương cách đe dọa này.

Nhưng nếu người dân khỏi phải đóng tiền bảo hiểm sức khoẻ rồi lấy tiền đó bù qua để trả thuế, như vậy tiền đem về hàng tháng vẫn không thay đổi là bao.  Như vậy thì có gì khác nhau giữa hệ thống bảo hiểm hiện nay và hệ thống bảo hiểm công cộng mà TNS Clinton đề xướng"  Sự khác biệt là ở chỗ mọi người không cần phải lo lắng cho dịch vụ sức khoẻ nữa.  Người dân khỏi cần phải bám víu vào việc làm nhằm để có bảo hiểm.  Sự kinh doanh cũng dễ dàng hơn cho những ai muống khai mở hãng xưởng, và công ăn việc làm sẽ gia tăng.  Hoa Kỳ là một nước công nghệ giàu có duy nhất không có hệ thống sức khỏe công cộng, và dân Mỹ là dân làm việc cực khổ nhất so với các nước tiên tiến khác. 

Về vấn đề Iraq, cả hai TNS Obama và Clinton đều tuyên bố sẽ rút lui; nhưng Obama gia hạn 16 tháng, còn Clinton thì không cho hạn kỳ rõ rệt.

Thử nghĩ xem nếu theo kế hoạch của TNS Obama, Hoa Kỳ sẽ rút lui trong vòng 16 tháng, chuyện gì sẽ xảy ra ở Iraq"  Ở vùng trung đông"  Cộng đồng người Việt hải ngoại chúng ta chắc ai cũng có thể mường tượng ra một 30 tháng 4 nữa.  Chánh phủ Iraq liệu có thể đứng vững được bao lâu"  Iran sẽ tạo áp lực ra sao lên Iraq"  Hoa Kỳ còn có chân đứng ở trung đông nữa hay không"  Nếu Hoa Kỳ ào ạt rút quân khỏi Iraq, căn cứ quân sự duy nhất Hoa Kỳ còn lại ở vùng vịnh là Kuwait.  Hoa Kỳ đã đóng phần lớn các cơ quan quân sự ở Arab Saudi sau khi chiếm dược Iraq.  Liệu Hoa Kỳ còn có ảnh hưởng gì đến chánh phủ Iraq sau này"  Trước khi chế độ Saddam sụp đổ Iraq là một nước mạnh về quân sự.  Các nước lân cận như Iran, Kuwait, Arab Saudi, Jordan, thậm chí Turkey rất sợ Iraq.  Sau khi chiến tranh vùng vịnh lần thứ nhất dưới thời TT H. W. Bush (41), Iraq bị Hoa Kỳ kềm hãm triệt để.  Trong suốt 8 năm từ 1992 đến 2000 dưới thời TT Bill Clinton, Hoa Kỳ đã hoàn toàn phong tỏa Iraq, cả quân sự lẫn kinh tế, và nhờ vậy vùng vịnh rất yên tĩnh.  Nhờ vào chánh sách đổi dầu lấy thực phẩm (oil for food) của TT Bill Clinton, Hoa Kỳ đã nắm chặt hầu bao của các nước đang khao khát dầu để phát triển kinh tế.  Tất cả dầu xuất khẩu khỏi Iraq và lương thực, thuốc men nhập vào Iraq đều phải được sự thông qua của Liên Hiệp Quốc (LHQ), và dĩ nhiên lúc đó Hoa Kỳ có uy tín và ảnh hưởng rất lớn ở LHQ.

Sau khi chế độ Saddam sụp đổ năm 2003 do quyết định tấn công Iraq của chánh quyền Bush, vùng vịnh bỗng như nhà bỏ hoang.  Các nước chung quanh chẳng còn thế lực mạnh nào để lo ngại nữa.  Tất cả đều đứng bên lề chờ xem Hoa Kỳ sẽ dựng chế độ mới ở Iraq ra sao.  Nhưng Hoa Kỳ đã thất bại trong vấn đề bảo an và xây dựng Iraq mặc dù đã chi phí 200 tỷ dollar mỗi năm.  Iran trong thời gian qua đã phát triển mạnh kinh tế và quân sự, và hiện nay có thể họ đang chế tạo vũ khí hạt nhân.  Sự vắng mặt của Hoa Kỳ sẽ khiến Iran trở nên quốc gia quan trọng ở vùng vịnh.

Nhưng nếu không rút quân thì Hoa Kỳ sẽ lưu lại đó cho đến chừng nào"  Hoa Kỳ đã quá lún sâu vào vũng lầy Iraq.  Không thể nào cứ như thế này hoài được.  Quân lính ngày càng khan hiếm.  Các binh sĩ đang tại ngũ đã kiệt sức.  Phải có một ngày Hoa Kỳ rút lui khỏi Iraq.  Nhưng khó mà có thể đoán trước thời hạn là bao lâu thì sẽ thi hành.  TNS Clinton vì thế đã không tuyên bố một thời hạn nào rõ ràng cả.  Trong cuộc tranh luận do CNN tổ chức, bà phát biểu rằng không ai có thể phán quyết thời hạn để rút quân cho đến khi người đó tiếp nhận đầy đủ dữ kiện từ chánh quyền trước.  Tuyên bố một mấu chốt thời gian trước khi thấu hiễu tình hình là non nớt, hấp tấp.

Về phía đảng Cộng Hoà (ĐCH), hôm thứ hai có tin vui cho TNS John MacCain.  Cựu TT H. W. Bush (41) đã tuyên bố ủng hộ cho TNS McCain.  TNS McCain tuy đang là ứng cử viên dẫn đầu trong ĐCH nhưng vẫn chưa được giới bảo thủ (conservative) chấp nhận.  Họ cho rằng ông ta quá thân cận với ĐDC và không chấp nhận chủ trương nhân nhượng đối với vấn đề các người di dân bất hợp pháp.  Mike Huckabee, tuy lẹt đẹt theo sau nhưng nhất định không bỏ cuộc.  Cựu TT Bush phải hàm ý khuyên Huckabee nên bỏ ý định tiếp tục tranh cử vì sẽ tốn kém cho cả đôi bên.  Hiện nay cả hai, TNS McCain và Huckabee đều rất túng thiếu.  Người giàu có nhất trong kỳ bầu cử sơ bộ này của ĐCH là cựu thống đốc Mitt Romney, nhưng ông đã bỏ cuộc và ủng hộ TNS McCain.

Có hai điều lạ xảy ra trong kỳ bầu cử TT này.  Điều lạ thứ nhất là thông thường thì nếu kỳ bầu cử mà rơi vào cuối nhiệm kỳ của TT đương thời, ứng cử viên của đảng đang nắm Toà Bạch Ốc (TBO) phải là phó tổng thống (PTT).  Bush (41) là PTT dưới thời Reagan, Al Gore là PTT dưới thời Bill Clinton.  Nhưng kỳ này ta không thấy ứng cử viên Cheney!  Chẳng hiểu vì lý do gì ĐCH không chọn vị PTT đương kim ra ứng cử.  Tuổi của PTT Cheney cũng chưa đến nỗi già lắm so với một chính khách.  Ông chỉ mới 66, vừa đúng tuổi hưu trí.  TNS McCain còn cao niên hơn PTT Cheney nhiều.  Ông đã 71 mà vẫn còn hăng say phục vụ quốc gia.

Điều lạ thứ nhì là không thấy ai trong TBO ra ủng hộ cho ứng cử viên ĐCH nào cả.  TT Bush chỉ ra tuyên bố bâng quơ là dân chúng ĐCH nên ủnh hộ cho ứng cử viên của đảng mình nhưng không nêu đích danh là ông ủng hộ cho ai.  Thật ra điều này cũng không khó hiểu lắm.  Với sự bất tín của dân chúng nói chung, và dân chúng thuộc ĐCH nói riêng, thì nếu TT Bush mà tuyên bố ủng hộ cho kẻ nào thì coi như dao kề vào cổ kẻ ấy.  Nhưng với cương vị một dương kim TT mà chẳng làm gì cho đảng phái của mình thì cũng bẽ mặt quá; nên chắc có lẽ vì thế TT Bush phải lên tiếng cho có lệ.

Riêng giữa TT Bush và TNS McCain thì đã từng có xích mích.  Trong lần bầu cử sơ bộ năm 1999, TNS McCain bất thình lình thắng ở New Hampshire.  Bush, lúc đó đang là thống đốc (TDD) band Texas, quá hoảng sợ bèn tung trò bẩn, thoá mạ TNS McCain ở South Carolina.  Ngày mà thống kê thăm dò dư luận (poll) cho thấy TNS McCain thắng TDD Bush 5%, Bush cùng với một cựu chiến binh tên J. Thomas Burch lên án TNS McCain đã bỏ rơi các tù binh chiến tranh và các binh sĩ mất tích ở Việt Nam và vấn đề chất da cam (agent orange).  TNS McCain trả đũa qua các quảng cáo truyền hình (ads), cáo tội TDD Bush nói láo và so sánh Bush với TT Bill Clinton.  TDD Bush dựa vào đó, cho là bị sỉ nhục (")  Trong lúc đôi bên đang ấu đả dữ dội thì bỗng nhiên có một tổ chức ngấm ngầm hoạt động.  Họ không nêu rõ thuộc tổ chức nào và chỉ dùng e-mail, fax, và thư rơi (flyer), bôi nhọ TNS McCain một cách trắng trợn.  Họ nói rằng TNS McCain đã từng có con vơi một người da đen.  Thật ra TNS McCain có nhận một đứa con nuôi tên Bridget người Bangladesh.  Họ còn tung tin rằng là bà vợ của TNS McCain, Cindy, nghiện thuốc phiện, rằng là TNS McCain là người đồng tính luyến ái.  TNS McCain giận vô cùng và đã buộc tội TDD Bush là thủ phạm.  Dĩ nhiên TDD Bush từ chối phăng, còn tuyên bố rằng nếu biết được ai trong nội bộ của ông làm như vậy là sẽ đuổi cổ ngay.  Nhưng đây không phải là lân đầu tiên người ta thấy trò bẩn thỉu này.  Nó đã xảy ra một lần trước ở Texas khi Bush đang tranh cử thống đốc tiểu bang với bà Ann Richards.  Cuộc bầu cử sơ bộ của ĐCH ở South Carolina năm 1999 được xem là cuộc tranh đua chính trị dơ bẩn và gớm ghiếc nhất trong lịch sử Hoa Kỳ.

 TNS John McCain là một người rất cương trực.  Ông luôn hãnh diện về lý lịch của mình trong quá trình hoạt động chính trị.  Qua các lần nói chuyện, tranh luận của các ứng cử viên cả hai đảng Dân Chủ và Cộng Hòa,  nếu ai để ý sẽ thấy TNS Clinton ít khi nào nêu đích danh hay có vẻ khiêu khích TNS McCain.  TNS Obama thì ngược lại, rất thường xuyên nêu tên và khiêu khích McCain.  Điều đó cho thấy phần nào sự kính trọng của TNS Clinton đối với TNS McCain.

Phụng sự quốc gia là một trọng trách và vinh dự.  Sự tranh đấu trên chính trường là một quá trình mà chính khách nào cũng phải trải qua.  Tuy mục đích là điều quan trọng nhất, nhưng sử dụng phương tiện nào để đạt được mục đích mới cho thấy rõ bản lãnh của người ấy.  Cuộc tranh cử sơ bộ kỳ này ngày càng cam go.  Đây quả thật là một dịp hiếm có để toàn dân có thể nhìn thấy một cách rõ ràng kỷ cương và phong độ của các ứng cử viên.

(Ghi chú: Baì viết là quan điểm của tác giả, không phản ảnh quan điểm tòa soạn.)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tháng Năm, 2024, trong phiên tòa xét xử bị cáo, tức cựu Tổng thống Donald Trump, liên quan các khoản chi phí cho nữ diễn viên phim khiêu dâm Stormy Daniels dưới dạng tiền bịt miệng, có một cựu công tố viên, bộ trưởng tư pháp từ Flordia đến tòa New York. Bà ngồi bên dưới theo dõi để ủng hộ Trump. Đó là Pam Bondi. Sau khi bồi thẩm đoàn phán quyết Trump có tội trong 34 tội danh, Bondi đã xuất hiện trên Fox News, cùng với Kash Patel, phát biểu rằng “một niềm tin rất lớn đã bị mất vào hệ thống tư pháp tối nay.” Bà còn nói thêm: “Người dân Mỹ đã nhìn thấu điều đó.”
Chiều thứ Sáu, chúng tôi ăn trưa với một người bạn mới ở Huntington Beach. Không biết vì men bia hay vì chọn quán giữa một thành phố “đỏ”, câu chuyện đang nhẹ nhàng bỗng rẽ thẳng vào chính trường. Nhắc đến những gì xảy ra kể từ ngày tổng thống Trump nắm quyền sinh sát, cô bạn tôi đề cập đến vật giá leo thang, vừa lạm phát vừa thuế quan, kinh tế bất ổn, đời sống bất an… Anh bạn mới của chúng tôi nghe đến đây lên tiếng cắt lời: “Dẫu có thế, so với nhiều người, nhiều xứ khác, người Mỹ vẫn còn đang sống trong may mắn. Và chúng ta nên biết ơn điều đó.” Anh khiến tôi liên tưởng đến thuyết “dân túy tàn bạo”, được Jay Kuo nhắc đến trong bài báo mới đăng của Ông trên Substack tuần qua.
Tuần trước, tình cờ tôi đọc được một bài viết của tác giả Vũ Kim Hạnh được chia sẻ lại qua Facebook. Bài viết có tựa đề là "Cơ hội vàng ở Mỹ sau mức thuế đối ứng 20%", trong đó bà nhắc riêng về kỹ nghệ xuất cảng gỗ của Việt Nam sang Hoa Kỳ và thế giới. Trước khi đi vào chi tiết của bài viết, có thể nhắc sơ về bà Vũ Kim Hạnh ắt đã quen thuộc với nhiều người trong nước. Bà từng là Tổng Biên Tập báo Tuổi Trẻ, cũng như nằm trong nhóm sáng lập tờ tuần báo Sài Gòn Tiếp Thị, từng là những tờ báo khá thành công tại Việt Nam.
Franklin D. Roosevelt (1882-1945), Tổng Thống Hoa Kỳ thứ 32 và là vị tổng thống Mỹ duy nhất phục vụ hơn 2 nhiệm kỳ, đã từng nói rằng, “Tự do của nền dân chủ không an toàn nếu người dân dung túng sự gia tăng của quyền lực cá nhân tới mức trở thành mạnh hơn chính nhà nước dân chủ đó. Điều đó trong bản chất là chủ nghĩa phát xít: quyền sở hữu của chính phủ thuộc về một cá nhân, một nhóm người, hay bất cứ thế lực cá nhân nào đang kiểm soát.” Lời cảnh giác đó của TT Roosevelt quả thật đã trở thành lời tiên tri đang ứng nghiệm trong thời đại hiện nay của nước Mỹ. Tổng Thống Donald Trump trong nhiệm kỳ đầu và gần 8 tháng của nhiệm kỳ hai đã thể hiện rõ ý chí và hành động của một nhà lãnh đạo muốn thâu tóm mọi quyền lực trong tay mình bất chấp những việc làm này có phá vỡ nền tảng tự do và dân chủ mà nước Mỹ đã nỗ lực không ngừng để tạo dựng và giữ gìn trong suốt hai trăm năm mươi năm qua hay không!
Từ lâu trong chính trị Mỹ vẫn tồn tại một quy tắc bất thành văn, khi thì nói lên to rõ “chúng ta tốt đẹp hơn như thế này,” hoặc có khi chỉ thì thầm, nhẹ nhàng, rằng đảng Dân Chủ không nên sa vào bùn lầy. Nhiều thập niên qua, “quy tắc” này đã định hình cả vận động tranh cử lẫn cách cầm quyền lãnh đạo. Tổng thống Barack Obama, bằng sự điềm tĩnh, được xem là bậc thầy về nghệ thuật này, ngay cả khi Donald Trump mở màn thuyết âm mưu “giấy khai sinh giả.” Tổng thống Joe Biden cũng vậy. Ông lèo lái đất nước sau đại dịch bằng chiến lược đặt niềm tin vào sự văn minh, đoàn kết, tin rằng lời kêu gọi phẩm giá có thể giữ thăng bằng cho con thuyền trong cơn chao đảo vì sóng dữ.
Trong nhiều tháng qua, các tài khoản chính thức của Bạch Ốc và Bộ Nội An trên mạng X liên tục tung ra hình ảnh và video (meme) dị hợm: từ ảnh ghép kèm âm thanh chế giễu, những đoạn đăng kiểu TikTok, cho đến tranh vẽ bằng trí tuệ nhân tạo. Đây không phải trò vui của vài nhân viên rảnh rỗi, mà là một chiến dịch có chủ ý, lặp đi lặp lại, như muốn răn: ai mới thực sự được coi là người Mỹ. Trang NPR ngày 18 tháng 8 nhận định: “Các tài khoản chính thức của chính quyền Trump đang khai thác đủ kiểu meme, hình ảnh AI với giọng điệu đầy thách thức trong các bài đăng trên mạng xã hội.”
Trước khi quay lại cùng cuộc họp song phương giữa Trump và Putin tại Alaska, hãy quay lại những cuộc họp giữa Donald Trump và lãnh tụ Bắc Hàn Kim Jong Un trong nhiệm kỳ đầu của Donald Trump. Lần đầu tiên, một đương kim tổng thống Hoa Kỳ đã hạ mình sang Châu Á đến ba lần, lần đầu tại Singapore, rồi Việt Nam và cuối cùng ngay tại khu phi quân sự giữa Nam-Bắc Hàn, để gặp và nâng cao vị thế một tay "Chí Phèo" cộng sản mặt sữa nhưng khét tiếng độc ác lên vị thế chính thức ngang hàng với Hoa Kỳ trên chính trường quốc tế.
Trong căn phòng trắng, lổm chổm những mảng phù điêu mạ vàng trên trần nhà và tường, một người đàn ông mảnh khảnh, nhanh nhẹn bước ra giới thiệu trước ống kính báo chí món quà đặc biệt ông cố ý mang theo tặng Tổng thống Donald Trump. Đó là lần hiếm hoi CEO của hãng Apple, Tim Cook, xuất hiện trong trang phục sơ mi cà vạt vest đen. Ngay cả trong những lần ra mắt sản phẩm iPhone mới hàng năm, vốn được xem là sự kiện quan trọng bật nhất của Apple, người ta cũng không thấy Cook phải bó mình trong bộ lễ phục trịnh trọng như vậy. Tim Cook đã mang đến cho các tín đồ của trái táo một sự bất ngờ, giống như 15 năm trước, ông xuất hiện trên tạp chí Out ở vị trí đầu bảng xếp hạng Power 50, một danh sách xếp hạng những cá nhân đồng tính nam và đồng tính nữ có ảnh hưởng nhất vào thời điểm đó.
Trong những tháng qua, thảm họa đói của người Palestine ở dải Gaza đã làm thế giới rúng động. Tin tức về trẻ em Palestine bị bắn chết trong khi cố len lỏi tới rào sắt để nhận thức ăn viện trợ được truyền đi; nhiều người đặt câu hỏi về lương tri của những kẻ tổ chức “công tác nhân đạo” này (công ty Gaza Humanitarian Foundation do chính phủ Trump hậu thuẫn). UN ước tính có khoảng 1,400 người Palestine đã chết khi tìm cách nhận thực phẩm cứu trợ. Vào tháng 12 năm 2023, Nam Phi đã đệ đơn kiện Israel lên Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) cáo buộc quốc gia này phạm tội diệt chủng ở Gaza. Một số quốc gia khác tham gia hoặc bày tỏ sự ủng hộ đối với vụ kiện, bao gồm: Nicaragua, Bỉ, Colombia, Thổ Nhĩ Kỳ, Libya, Ai Cập, Maldives, Mexico, Ireland, Chile Palestine…
Trí nhớ của một cộng đồng không chỉ mất đi khi thời gian làm phai mờ, mà có khi có bàn tay cố tình tháo gỡ. Không cần nhiều bút mực, chỉ cần bỏ vài dòng, thay một chữ, hoặc xóa một đoạn – câu chuyện lập tức đổi nghĩa. Lịch sử hiện đại đã nhiều lần chứng kiến điều đó. Năm 1933, chính quyền Quốc xã Đức đốt sách giữa quảng trường, thay lại giáo trình, đặt viện bảo tàng và văn khố dưới quyền Bộ Tuyên Giám. Joseph Goebbels nói: “Chúng ta không muốn người dân sử dụng cái đầu. Chúng ta muốn họ hành xử theo cảm tính.” Tám thập niên sau, ở một góc khác của địa cầu, những bản thảo của Trương Vĩnh Ký – người khai sáng nền quốc ngữ Việt – bị loại khỏi thư viện vì bị gán là “tay sai thực dân”. Sau 1975, chính quyền cộng sản xét duyệt văn hóa trên toàn quốc: các tác phẩm học thuật bị cấm; bị đốt, tên tuổi các học giả và nhà văn miền Nam biến mất khỏi mọi tiến trình văn hóa. Tại Hoa Kỳ ngày nay, sự thật không bị đấu tố – nhưng bị biên tập lại.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.