Hôm nay,  

Cuộc Chiến Vẫn Tiếp Diễn

21/02/200800:00:00(Xem: 8699)

Cuộc bầu cử sơ bộ của đảng Dân Chủ (ĐDC) đang tiến tới một tình trạng chưa từng xảy ra trong lịch sử Hoa Kỳ.  Trong các cuộc bầu cử sơ bộ trước kia, thường thì chỉ vài ba tiểu bang đầu, ứng cử viên tổng thống đã được chọn.  Nhưng kỳ này thì rất khác.  Cho đến nay ĐDC chỉ còn 18 tiểu bang và lãnh thổ, nhưng họ vẫn chưa thể nhận diện được ai sẽ là ứng cử viên tổng thống kỳ này.

 Cả hai ứng cử viên thuộc ĐDC: thượng nghị sĩ (TNS) Hillary Clinton của tiểu bang New York và TNS Barrack Obama của tiểu bang Illinois vẫn còn vận động gay go ở những tiểu bang còn lại.  Ngày 4 tháng 3 tới đây rất quan trọng vì dó là ngày bầu cử sơ bộ của một số tiểu bang trong đó có 2 tiểu bang lớn là Texas và Ohio.

Theo sự phỏng đoán của đài truyền hình CNN: nếu TNS Obama vẫn tiếp tục thắng TNS Hillary Cliton tất cả những tiểu bang và lãnh thổ còn lại, nhưng cũng vẫn với tỷ số tương tự như từ trước tới giờ-khoảng 60%/40%-thi` cuối cùng cuộc tranh cử sơ bộ vẫn bất phân thắng bại.  ĐDC áp dụng quy luật bầu cử sơ bộ theo hệ thống tỷ số, nghĩa là số đại biểu (ĐB) sẽ được phân phối theo phần trăm số cử tri mà ứng cử viên đã đạt được.  Có 2 loại ĐB: loại thứ nhất gọi là đại biểu cử tri (ĐBCT) (pledged delegate).  Đây là những đại biểu mà ứng cử viên chiếm được từ những phân bộ đảng ở các tiểu bang.  Loại thứ nhì gọi là siêu đại biểu (SDDB) (superdelegate).  Đây là những viên chức cao cấp trong đảng như các TNS, các hạ nghị sĩ (HNS), các thống đốc, v.v..  Mỗi SDDB tương đương với khoảng 10,000 cử tri.  Tổng số ĐB trong ĐDC là 4049 ĐB: 3253 ĐBCT và 796 SDDB.  Để thắng cuộc bầu cử sơ bộ, ứng cử viên phải chiếm được 2025 ĐB.  

 Cho đến thứ hai 18 tháng 2, 2008 TNS Obama chiếm được 1102 ĐBCT và 160 SDDB, tổng số là 1262 ĐB.  TNS Clinton chiếm được 978 ĐBCT và 235 SDDB, tổng cộng là 1213.  Cả hai chỉ cách nhau 49 ĐB!  Theo những con số trên thì cho đến nay vẫn còn 1173 ĐBCT và 383 SDDB vẫn chưa trao cho ai cả.

Sở trường của TNS Obama là lối diễn thuyết có thể khuấy động giới trẻ.  Lối diễn thuyết này rất giống Martin Luther King, Jr..  Chủ trương của TNS Obama là sự đổi mới.  Chỉ mới có 47 tuổi, TNS Obama đã khiến giới trẻ cảm thấy gần gũi và cảm thông.  Ông nói lên những gì mà giới trẻ đang khao khát.  Đã đến lúc Washington cần một khuôn mặt mới, một sinh khí mới, một phương hướng mới, và những hy vọng mới.  Chính vì thế đa số cử tri bầu cho TNS Obama là giới trẻ.  Nếu Al Gore tượng trưng cho sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật thì Barrack Obama tượng trưng cho sự đổi mới.  Dĩ nhiên người Mỹ gốc Phi Châu hoàn toàn bầu cho ông.  Qua bao nhiêu lần cố gắng, đây là lần đầu tiên họ có một ứng cử viên gốc Phi Châu có thể tiến xa đến như vậy.  Jesse Jackson, Al Sharpton chưa hề có thể dẫn đầu trong bất kỳ cuộc bầu cử sơ bộ nào, huống hồ chi là đã hơn quá nửa đường.

Nhưng TNS Obama cũng không hoàn toàn chiếm được lòng mọi người trong ĐDC.  Nên nhớ ông chỉ thắng 60%.  Phần cử tri còn lại đã bầu cho TNS Clinton.  Đa số là phụ nữ và những người thuộc giới trung lưu (middle class).  Họ là những người mất mát nhiều nhất dưới thời chánh phủ Bush.  Chánh sách xuất cảng việc làm (outsource) đã khiến bao nhiêu việc làm lương cao biến mất trên nước Mỹ.  Giá xăng tăng hơn gấp đôi khiến vật giá leo thang.  Lương thì không tăng, thậm chí nhiều khi còn bị cắt giảm khiến cuộc sống nhiều gia đình trung lưu trở nên eo hẹp, khốn đốn.  Thêm vào đó, cuộc khủng hoảng địa ốc hiện đang lan tràn khắp nơi khiến rất nhiều gia đình trung lưu phải mất nhà mất cửa. 

Giới trung lưu là giới thiệt thòi nhất trong xã hội Mỹ.  Ước chừng khoảng 80% thuế mà chánh phủ thâu được là từ giới trung lưu, nhưng họ lại được hưởng ít quyền lợi nhất.  Tiền thuế an sinh xã hội (social security contribution) họ đóng là để cấp dưỡng cho những người hưu trí hiện nay.  Họ không được hưởng bất cứ một quyền lợi y tế nào của chánh phủ cả.  Một quyền lợi duy nhất mà họ có thể nhận được là tiền thất nghiệp (unemployment benefit).  Không những thế, giới này đang trở nên ít dần đi.  Nhiều người từ giới hạ trung lưu (lower middle class) đã bị rơi xuống trở thành giới nghèo  khó (lower class).  Nếu dười thời tổng thống (TT) Bill Clinton có nhiều ngừời từ giới trung lưu trở thành triệu phú nhất, thì dưới thời TT Bush có nhiều người từ giới trunh lưu biến thành giới nghèo khó nhất.

Đây có thể là một trong những lý do giới trung lưu dồn phiếu cho bà Hillary Clinton.  Có lẽ họ nghĩ rằng bà sẽ có chánh sách phục hồi và phát triển kinh tế tương tự như chồng bà; và đương nhiên, ủy ban kinh tế của chánh phủ bà sẽ bao gồm những chuyên gia từ chánh phủ Bill Clinton.

Như vậy thì quan điểm giữa TNS Obama và TNS Clinton có gì khác biệt"  Họ khác nhau ở hai điểm quan trọng: bảo hiểm sức khỏe (healthcare) và Iraq.

TNS Clinton chủ trương thiết lập hệ thống bảo hiểm sức khỏe công cộng (universal healthcare) tương tự như các nước công nghiệp tiên tiến như Gia Nã Đại, Anh Quốc, Pháp, Thụy Điển, Uc Đại Lợi, v.v..   TNS Obama thì không tiến xa đến như thế mà chỉ tuyên bố sẽ làm giảm giá bảo hiểm sức khỏe khiến nhiều người nghèo sẽ có được bảo hiểm.

Nếu ai đã hay đang làm việc ở Hoa Kỳ cũng đều hiểu được rằng giá bảo hiểm sức khoẻ khấu trù hàng tháng gia tăng trong vòng 5 năm nay như thế nào.  Bây giờ không ai dám chọn các chương trình PPO mà chỉ có thể chịu nổi các chương trình HMO.  Và ai cũng thừa hiểu HMO nó khổ sở như thế nào.  Giá co-pay mỗi lần gặp bác sĩ cứ tăng dần, từ $10 rồi $15, có khi lên đến $25.  Mỗi lần muốn gặp bác sĩ chuyên môn phải xin phép hãng bảo hiễm, có khi dây dưa đến cả tháng.  Sự gia tăng giá bảo hiểm cũng là một gánh nặng cho các công ty, nhất là những công ty nhỏ cỡ dưới 100 nhân viên.  Vấn đề nan giải này đã khiến nhiều công ty nhỏ phải sa thải nhân viên, có khi phải đóng cửa.  Về phía nhân viên, nếu ai mà đang ở trong khoảng tuổi trên 50 thì rất có nhiều cơ hội họ sẽ bị sa thãi.  Lý do là vì năng xuất họ sẽ kém đi, lương họ cũng khá cao, và một điểm quan trọng nữa là bảo hiểm sức khỏe của họ sẽ rất mắc.  Mà nếu họ bị sa thãi thì họ sẽ không có bảo hiểm sức khoẻ gì cả.  Họ không thể nào cưu mang nổi một chương trình COBRA vì nó rất là mắc.  Họ vẫn chưa đủ 65 tuổi để xin Medicare.  Nếu trong thời gian này mà họ có chuyện gì về sức khỏe thì họ chỉ đành phải chịu vậy.

Hãy thử tưởng tượng một hệ thống bảo hiểm sức khoẻ công cộng.  Tất cả công dân hay thường trú dân đều có thể xử dụng hệ thống y tế do chánh phủ đài thọ.  Dù cho ai có việc làm hay không, họ vẫn được bảo đảm dịch vụ y tế.  Về phía các công ty, họ không cần phải trả tiền bảo hiểm cho nhân viên khiến họ dễ dàng lựa chọn nhân viên.  Chánh phủ sẽ chi phí chương trình này bằng thuế do dân đóng góp.  Điều này có nghĩa là chánh phủ sẽ tăng thuế.  Hiện nay thuế lợi tức của một gia đình trung lưu ở Mỹ là khoảng trên dưới 30%.  Nếu chánh phủ áp dụng kế hoạch này, rất có thể thuế sẽ tăng lên 40%.  Phe chống kế hoạch này sẽ viện lý do tăng thuế để dọa dân chúng.  Ở Mỹ, khi nghe tăng thuế thì ai cũng hoảng sợ, và các chính khách thường xuyên dùng phương cách đe dọa này.

Nhưng nếu người dân khỏi phải đóng tiền bảo hiểm sức khoẻ rồi lấy tiền đó bù qua để trả thuế, như vậy tiền đem về hàng tháng vẫn không thay đổi là bao.  Như vậy thì có gì khác nhau giữa hệ thống bảo hiểm hiện nay và hệ thống bảo hiểm công cộng mà TNS Clinton đề xướng"  Sự khác biệt là ở chỗ mọi người không cần phải lo lắng cho dịch vụ sức khoẻ nữa.  Người dân khỏi cần phải bám víu vào việc làm nhằm để có bảo hiểm.  Sự kinh doanh cũng dễ dàng hơn cho những ai muống khai mở hãng xưởng, và công ăn việc làm sẽ gia tăng.  Hoa Kỳ là một nước công nghệ giàu có duy nhất không có hệ thống sức khỏe công cộng, và dân Mỹ là dân làm việc cực khổ nhất so với các nước tiên tiến khác. 

Về vấn đề Iraq, cả hai TNS Obama và Clinton đều tuyên bố sẽ rút lui; nhưng Obama gia hạn 16 tháng, còn Clinton thì không cho hạn kỳ rõ rệt.

Thử nghĩ xem nếu theo kế hoạch của TNS Obama, Hoa Kỳ sẽ rút lui trong vòng 16 tháng, chuyện gì sẽ xảy ra ở Iraq"  Ở vùng trung đông"  Cộng đồng người Việt hải ngoại chúng ta chắc ai cũng có thể mường tượng ra một 30 tháng 4 nữa.  Chánh phủ Iraq liệu có thể đứng vững được bao lâu"  Iran sẽ tạo áp lực ra sao lên Iraq"  Hoa Kỳ còn có chân đứng ở trung đông nữa hay không"  Nếu Hoa Kỳ ào ạt rút quân khỏi Iraq, căn cứ quân sự duy nhất Hoa Kỳ còn lại ở vùng vịnh là Kuwait.  Hoa Kỳ đã đóng phần lớn các cơ quan quân sự ở Arab Saudi sau khi chiếm dược Iraq.  Liệu Hoa Kỳ còn có ảnh hưởng gì đến chánh phủ Iraq sau này"  Trước khi chế độ Saddam sụp đổ Iraq là một nước mạnh về quân sự.  Các nước lân cận như Iran, Kuwait, Arab Saudi, Jordan, thậm chí Turkey rất sợ Iraq.  Sau khi chiến tranh vùng vịnh lần thứ nhất dưới thời TT H. W. Bush (41), Iraq bị Hoa Kỳ kềm hãm triệt để.  Trong suốt 8 năm từ 1992 đến 2000 dưới thời TT Bill Clinton, Hoa Kỳ đã hoàn toàn phong tỏa Iraq, cả quân sự lẫn kinh tế, và nhờ vậy vùng vịnh rất yên tĩnh.  Nhờ vào chánh sách đổi dầu lấy thực phẩm (oil for food) của TT Bill Clinton, Hoa Kỳ đã nắm chặt hầu bao của các nước đang khao khát dầu để phát triển kinh tế.  Tất cả dầu xuất khẩu khỏi Iraq và lương thực, thuốc men nhập vào Iraq đều phải được sự thông qua của Liên Hiệp Quốc (LHQ), và dĩ nhiên lúc đó Hoa Kỳ có uy tín và ảnh hưởng rất lớn ở LHQ.

Sau khi chế độ Saddam sụp đổ năm 2003 do quyết định tấn công Iraq của chánh quyền Bush, vùng vịnh bỗng như nhà bỏ hoang.  Các nước chung quanh chẳng còn thế lực mạnh nào để lo ngại nữa.  Tất cả đều đứng bên lề chờ xem Hoa Kỳ sẽ dựng chế độ mới ở Iraq ra sao.  Nhưng Hoa Kỳ đã thất bại trong vấn đề bảo an và xây dựng Iraq mặc dù đã chi phí 200 tỷ dollar mỗi năm.  Iran trong thời gian qua đã phát triển mạnh kinh tế và quân sự, và hiện nay có thể họ đang chế tạo vũ khí hạt nhân.  Sự vắng mặt của Hoa Kỳ sẽ khiến Iran trở nên quốc gia quan trọng ở vùng vịnh.

Nhưng nếu không rút quân thì Hoa Kỳ sẽ lưu lại đó cho đến chừng nào"  Hoa Kỳ đã quá lún sâu vào vũng lầy Iraq.  Không thể nào cứ như thế này hoài được.  Quân lính ngày càng khan hiếm.  Các binh sĩ đang tại ngũ đã kiệt sức.  Phải có một ngày Hoa Kỳ rút lui khỏi Iraq.  Nhưng khó mà có thể đoán trước thời hạn là bao lâu thì sẽ thi hành.  TNS Clinton vì thế đã không tuyên bố một thời hạn nào rõ ràng cả.  Trong cuộc tranh luận do CNN tổ chức, bà phát biểu rằng không ai có thể phán quyết thời hạn để rút quân cho đến khi người đó tiếp nhận đầy đủ dữ kiện từ chánh quyền trước.  Tuyên bố một mấu chốt thời gian trước khi thấu hiễu tình hình là non nớt, hấp tấp.

Về phía đảng Cộng Hoà (ĐCH), hôm thứ hai có tin vui cho TNS John MacCain.  Cựu TT H. W. Bush (41) đã tuyên bố ủng hộ cho TNS McCain.  TNS McCain tuy đang là ứng cử viên dẫn đầu trong ĐCH nhưng vẫn chưa được giới bảo thủ (conservative) chấp nhận.  Họ cho rằng ông ta quá thân cận với ĐDC và không chấp nhận chủ trương nhân nhượng đối với vấn đề các người di dân bất hợp pháp.  Mike Huckabee, tuy lẹt đẹt theo sau nhưng nhất định không bỏ cuộc.  Cựu TT Bush phải hàm ý khuyên Huckabee nên bỏ ý định tiếp tục tranh cử vì sẽ tốn kém cho cả đôi bên.  Hiện nay cả hai, TNS McCain và Huckabee đều rất túng thiếu.  Người giàu có nhất trong kỳ bầu cử sơ bộ này của ĐCH là cựu thống đốc Mitt Romney, nhưng ông đã bỏ cuộc và ủng hộ TNS McCain.

Có hai điều lạ xảy ra trong kỳ bầu cử TT này.  Điều lạ thứ nhất là thông thường thì nếu kỳ bầu cử mà rơi vào cuối nhiệm kỳ của TT đương thời, ứng cử viên của đảng đang nắm Toà Bạch Ốc (TBO) phải là phó tổng thống (PTT).  Bush (41) là PTT dưới thời Reagan, Al Gore là PTT dưới thời Bill Clinton.  Nhưng kỳ này ta không thấy ứng cử viên Cheney!  Chẳng hiểu vì lý do gì ĐCH không chọn vị PTT đương kim ra ứng cử.  Tuổi của PTT Cheney cũng chưa đến nỗi già lắm so với một chính khách.  Ông chỉ mới 66, vừa đúng tuổi hưu trí.  TNS McCain còn cao niên hơn PTT Cheney nhiều.  Ông đã 71 mà vẫn còn hăng say phục vụ quốc gia.

Điều lạ thứ nhì là không thấy ai trong TBO ra ủng hộ cho ứng cử viên ĐCH nào cả.  TT Bush chỉ ra tuyên bố bâng quơ là dân chúng ĐCH nên ủnh hộ cho ứng cử viên của đảng mình nhưng không nêu đích danh là ông ủng hộ cho ai.  Thật ra điều này cũng không khó hiểu lắm.  Với sự bất tín của dân chúng nói chung, và dân chúng thuộc ĐCH nói riêng, thì nếu TT Bush mà tuyên bố ủng hộ cho kẻ nào thì coi như dao kề vào cổ kẻ ấy.  Nhưng với cương vị một dương kim TT mà chẳng làm gì cho đảng phái của mình thì cũng bẽ mặt quá; nên chắc có lẽ vì thế TT Bush phải lên tiếng cho có lệ.

Riêng giữa TT Bush và TNS McCain thì đã từng có xích mích.  Trong lần bầu cử sơ bộ năm 1999, TNS McCain bất thình lình thắng ở New Hampshire.  Bush, lúc đó đang là thống đốc (TDD) band Texas, quá hoảng sợ bèn tung trò bẩn, thoá mạ TNS McCain ở South Carolina.  Ngày mà thống kê thăm dò dư luận (poll) cho thấy TNS McCain thắng TDD Bush 5%, Bush cùng với một cựu chiến binh tên J. Thomas Burch lên án TNS McCain đã bỏ rơi các tù binh chiến tranh và các binh sĩ mất tích ở Việt Nam và vấn đề chất da cam (agent orange).  TNS McCain trả đũa qua các quảng cáo truyền hình (ads), cáo tội TDD Bush nói láo và so sánh Bush với TT Bill Clinton.  TDD Bush dựa vào đó, cho là bị sỉ nhục (")  Trong lúc đôi bên đang ấu đả dữ dội thì bỗng nhiên có một tổ chức ngấm ngầm hoạt động.  Họ không nêu rõ thuộc tổ chức nào và chỉ dùng e-mail, fax, và thư rơi (flyer), bôi nhọ TNS McCain một cách trắng trợn.  Họ nói rằng TNS McCain đã từng có con vơi một người da đen.  Thật ra TNS McCain có nhận một đứa con nuôi tên Bridget người Bangladesh.  Họ còn tung tin rằng là bà vợ của TNS McCain, Cindy, nghiện thuốc phiện, rằng là TNS McCain là người đồng tính luyến ái.  TNS McCain giận vô cùng và đã buộc tội TDD Bush là thủ phạm.  Dĩ nhiên TDD Bush từ chối phăng, còn tuyên bố rằng nếu biết được ai trong nội bộ của ông làm như vậy là sẽ đuổi cổ ngay.  Nhưng đây không phải là lân đầu tiên người ta thấy trò bẩn thỉu này.  Nó đã xảy ra một lần trước ở Texas khi Bush đang tranh cử thống đốc tiểu bang với bà Ann Richards.  Cuộc bầu cử sơ bộ của ĐCH ở South Carolina năm 1999 được xem là cuộc tranh đua chính trị dơ bẩn và gớm ghiếc nhất trong lịch sử Hoa Kỳ.

 TNS John McCain là một người rất cương trực.  Ông luôn hãnh diện về lý lịch của mình trong quá trình hoạt động chính trị.  Qua các lần nói chuyện, tranh luận của các ứng cử viên cả hai đảng Dân Chủ và Cộng Hòa,  nếu ai để ý sẽ thấy TNS Clinton ít khi nào nêu đích danh hay có vẻ khiêu khích TNS McCain.  TNS Obama thì ngược lại, rất thường xuyên nêu tên và khiêu khích McCain.  Điều đó cho thấy phần nào sự kính trọng của TNS Clinton đối với TNS McCain.

Phụng sự quốc gia là một trọng trách và vinh dự.  Sự tranh đấu trên chính trường là một quá trình mà chính khách nào cũng phải trải qua.  Tuy mục đích là điều quan trọng nhất, nhưng sử dụng phương tiện nào để đạt được mục đích mới cho thấy rõ bản lãnh của người ấy.  Cuộc tranh cử sơ bộ kỳ này ngày càng cam go.  Đây quả thật là một dịp hiếm có để toàn dân có thể nhìn thấy một cách rõ ràng kỷ cương và phong độ của các ứng cử viên.

(Ghi chú: Baì viết là quan điểm của tác giả, không phản ảnh quan điểm tòa soạn.)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Năm 1895, Alfred Nobel – nhà khoa học bị ám ảnh bởi cái giá mà nhân loại phải trả từ phát minh của mình – đã để lại di chúc năm 1895 rằng tài sản của ông sẽ dùng để tài trợ các giải thưởng “mang lại lợi ích lớn nhất cho nhân loại.” Đối với Nobel Hòa Bình, ông có phần đặc biệt: giải thưởng này sẽ được trao cho người đã “có nhiều hành động hoặc nỗ lực mang đến sự đoàn kết, hòa bình giữa các quốc gia, bãi bỏ hoặc giảm bớt quân đội thường trực, tổ chức và thúc đẩy các hội nghị hòa bình.” Sứ mệnh chọn lựa được giao cho Quốc Hội Na Uy, có lẽ vì ông tin rằng Na Uy – khi đó còn nhỏ bé và trung lập – sẽ ít bị cám dỗ bởi chính trị quyền lực.
Trung Hoa ngày nay như kinh thành giữa sa mạc, vẻ yên ổn bên ngoài chỉ là lớp sơn son thếp vàng phủ lên nền đá đã rạn. Thế giới đứng ngoài quan sát, vừa lo nó sụp, vừa biết nó trụ lại nhờ ảo ảnh quyền lực và niềm tin vay mượn. Dưới lớp hào nhoáng của “Giấc mộng Trung Hoa” là một cơ đồ quyền lực đang già nua trong chính tuổi trẻ của mình. Bởi sức mạnh của nó không khởi từ niềm tin, mà từ nỗi sợ — và nỗi sợ, tự thuở khai triều lập quốc, chưa bao giờ là nền tảng lâu bền.
Ngày 8 tháng 10 năm 2025, tại tòa án liên bang ở Alexandria, bang Virginia, cựu Giám đốc Cơ quan Điều tra Liên bang (FBI) James Comey không nhận tội đối với hai cáo buộc hình sự. Cáo trạng nêu rằng vào tháng 9 năm 2020, Comey đã nói dối Quốc Hội khi vẫn giữ nguyên lời khai trong buổi điều trần trước đó rằng ông không hề cho phép để lộ thông tin về cuộc điều tra của FBI liên quan đến Hillary Clinton. Theo nhiều bình luận gia pháp lý, từ cánh tả đến cánh hữu, việc truy tố Comey chủ yếu chỉ là do chính phủ liên bang đang cố tình nhắm vào kẻ mà Tổng thống “thấy không vừa mắt.” Comey là người đứng đầu cuộc điều tra nghi án Nga can thiệp bầu cử tổng thống 2016 và bị Trump lột chức vào năm 2017.
Sau sáu ngày đột ngột “bặt tiếng,” chương trình Jimmy Kimmel Live, của MC kiêm diễn viên hài và nhà biên kịch nổi tiếng, đã trở lại với khán thính giả vào tối 23/9/2025. Sự trở lại này, chỉ vỏn vẹn sau gần một tuần bị đình chỉ, không chỉ là tin vui với những người yêu tiếng cười đêm khuya của truyền hình Mỹ, mà còn là một hồi chuông cảnh tỉnh, kéo theo những bàn luận trái chiều, chạm đến cốt lõi của tự do ngôn luận, một trong những quyền thiêng liêng nhất trong thể chế dân chủ.
Texas, mùa thu 2025 – trên khuôn viên đại học giữa vùng đất vốn tự hào là “trái tim bảo thủ của nước Mỹ”, thay vì nghe tiếng lá thu rơi, người ta lại nghe tiếng giày đinh vang vọng, bước chân của bóng ma McCarthyism quay về - phiên bản thế kỷ 21 - trở lại giảng đường với tốc độ và sự kinh dị của thời đại kỹ thuật số. Ngày 9 tháng 9, trên bục giảng của trường Texas A&M University, giáo sư Melissa McCoul trong giờ văn học thiếu nhi, dùng hình một con kỳ lân tím để nói với sinh viên rằng bản sắc con người không chỉ có hai nửa nam–nữ. Một sinh viên giơ tay hỏi: “Điều này có hợp pháp không?” và viện dẫn sắc lệnh mà Tổng thống Donald Trump ký hồi tháng Giêng, tuyên bố chỉ có hai giới tính sinh học. Bà McCoul đáp bằng lý lẽ, không viện dẫn chính trị. Nhưng một chiếc điện thoại trong lớp đã ngầm quay lại hình ảnh. Và chỉ ít lâu sau, cả nước đều xem đoạn clip ấy – không phải để học, mà để phán xét.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi thể chế, phương Tây và Việt Nam đang phải đối diện trước những thách thức nghiêm trọng về cải cách chính sách để cho phù hợp với nhu cầu của thời đại mới, nhất là vai trò của pháp luật. Pháp luật là nền tảng thiết yếu cho sự vận hành ổn định và công bằng của xã hội. Là hệ thống quy phạm điều chỉnh hành vi con người, pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân và tập thể mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững. Trong xã hội hiện đại, vai trò của pháp luật được thể hiện rõ nét qua các lĩnh vực như bảo vệ an ninh quốc phòng, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm quyền tự do cá nhân, phát triển phúc lợi xã hội, và thúc đẩy tinh thần hợp tác cũng như hội nhập.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Quantico, Virginia, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth bước lên sân khấu trước hàng trăm tướng và đô đốc được triệu tập từ khắp nơi trên thế giới. Ông tuyên bố sẽ “cải tổ văn hóa quân đội” bằng mười chỉ thị mới, nhằm quét sạch cái mà ông gọi là “rác rưởi thức tỉnh” và khôi phục “tinh thần chiến binh”. Cụm từ ấy – nửa ca tụng bạo lực, nửa tán dương cơ bắp – nay đã trở thành thương hiệu chính trị của Hegseth. Trong cuốn Cuộc Chiến Chống Lại Những Chiến Binh (2024), ông cho rằng việc phụ nữ được đưa vào các vai trò chiến đấu đã “làm cạn kiệt” tinh thần này, khiến quân đội Hoa Kỳ “ít sát thương hơn.” Nghe qua, người ta tưởng quân đội chỉ tồn tại để đong máu đếm xác.
Ông bà xưa đã nói, nắm thì “nắm kẻ có tóc ai nắm kẻ trọc đầu.” Cách nói dân gian này rất cụ thể và dễ hình dung, người có tóc thì dễ bị nắm, bị túm, còn người trọc đầu thì không thể nắm được. Mang câu nói này vào chính trường Mỹ hiện tại, quả là khôi hài, nhưng không kém màu bi kịch. Nó phản ánh một sự thật trần trụi và không thể tránh khỏi: Quyền lực, chính sách, sắc lệnh hành pháp, các cuộc chiến pháp lý và ‘tuổi thọ’ chính trị của người đứng đầu nhánh hành pháp đang phụ thuộc vào sự phục tùng của các nhà lãnh đạo và những tài phiệt. Họ là ai? Họ là một mạng lưới của các quan chức, nhà lập pháp, giám đốc điều hành truyền thông, nhà tài trợ…, những người đã chọn chọ họ một thế đứng, xuôi theo những gì tổng thống muốn.
Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đang đánh một đòn nguy hiểm: huy động các văn phòng công tố đi điều tra mạng lưới từ thiện Open Society Foundations của gia đình Soros, một quỹ từ thiện quốc tế, nổi tiếng với việc tài trợ cho các dự án dân chủ, giáo dục và nhân quyền trên khắp thế giới. Danh sách cáo buộc nghe cứ như “vật lạ”: từ đốt phá đến tài trợ khủng bố. Open Society Foundations lập tức phản đối, khẳng định mình hoạt động hợp pháp, và nhắc lại điều mà bất cứ người tỉnh táo nào cũng hiểu: khi chính quyền có thể tùy tiện lấy một nhóm dân sự làm vật tế, thì quyền của mọi nhóm khác cũng chẳng còn gì bảo đảm.
Trong nhiều thập niên qua, giải pháp hai nhà nước luôn được xem là phương án khả thi nhằm mang lại hòa bình cho khu vực Trung Đông. Tuy nhiên, tiến trình này vẫn chưa đạt được kết quả cụ thể. Gần đây, cuộc tranh luận về việc công nhận nhà nước Palestine đang có những chuyển biến mới khi Pháp và Ả Rập Xê Út tổ chức một hội nghị quốc tế tại New York, ngay trước thềm Đại hội thường niên của Liên Hiệp Quốc.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.