Hôm nay,  

Cuộc Chiến Vẫn Tiếp Diễn

21/02/200800:00:00(Xem: 8702)

Cuộc bầu cử sơ bộ của đảng Dân Chủ (ĐDC) đang tiến tới một tình trạng chưa từng xảy ra trong lịch sử Hoa Kỳ.  Trong các cuộc bầu cử sơ bộ trước kia, thường thì chỉ vài ba tiểu bang đầu, ứng cử viên tổng thống đã được chọn.  Nhưng kỳ này thì rất khác.  Cho đến nay ĐDC chỉ còn 18 tiểu bang và lãnh thổ, nhưng họ vẫn chưa thể nhận diện được ai sẽ là ứng cử viên tổng thống kỳ này.

 Cả hai ứng cử viên thuộc ĐDC: thượng nghị sĩ (TNS) Hillary Clinton của tiểu bang New York và TNS Barrack Obama của tiểu bang Illinois vẫn còn vận động gay go ở những tiểu bang còn lại.  Ngày 4 tháng 3 tới đây rất quan trọng vì dó là ngày bầu cử sơ bộ của một số tiểu bang trong đó có 2 tiểu bang lớn là Texas và Ohio.

Theo sự phỏng đoán của đài truyền hình CNN: nếu TNS Obama vẫn tiếp tục thắng TNS Hillary Cliton tất cả những tiểu bang và lãnh thổ còn lại, nhưng cũng vẫn với tỷ số tương tự như từ trước tới giờ-khoảng 60%/40%-thi` cuối cùng cuộc tranh cử sơ bộ vẫn bất phân thắng bại.  ĐDC áp dụng quy luật bầu cử sơ bộ theo hệ thống tỷ số, nghĩa là số đại biểu (ĐB) sẽ được phân phối theo phần trăm số cử tri mà ứng cử viên đã đạt được.  Có 2 loại ĐB: loại thứ nhất gọi là đại biểu cử tri (ĐBCT) (pledged delegate).  Đây là những đại biểu mà ứng cử viên chiếm được từ những phân bộ đảng ở các tiểu bang.  Loại thứ nhì gọi là siêu đại biểu (SDDB) (superdelegate).  Đây là những viên chức cao cấp trong đảng như các TNS, các hạ nghị sĩ (HNS), các thống đốc, v.v..  Mỗi SDDB tương đương với khoảng 10,000 cử tri.  Tổng số ĐB trong ĐDC là 4049 ĐB: 3253 ĐBCT và 796 SDDB.  Để thắng cuộc bầu cử sơ bộ, ứng cử viên phải chiếm được 2025 ĐB.  

 Cho đến thứ hai 18 tháng 2, 2008 TNS Obama chiếm được 1102 ĐBCT và 160 SDDB, tổng số là 1262 ĐB.  TNS Clinton chiếm được 978 ĐBCT và 235 SDDB, tổng cộng là 1213.  Cả hai chỉ cách nhau 49 ĐB!  Theo những con số trên thì cho đến nay vẫn còn 1173 ĐBCT và 383 SDDB vẫn chưa trao cho ai cả.

Sở trường của TNS Obama là lối diễn thuyết có thể khuấy động giới trẻ.  Lối diễn thuyết này rất giống Martin Luther King, Jr..  Chủ trương của TNS Obama là sự đổi mới.  Chỉ mới có 47 tuổi, TNS Obama đã khiến giới trẻ cảm thấy gần gũi và cảm thông.  Ông nói lên những gì mà giới trẻ đang khao khát.  Đã đến lúc Washington cần một khuôn mặt mới, một sinh khí mới, một phương hướng mới, và những hy vọng mới.  Chính vì thế đa số cử tri bầu cho TNS Obama là giới trẻ.  Nếu Al Gore tượng trưng cho sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật thì Barrack Obama tượng trưng cho sự đổi mới.  Dĩ nhiên người Mỹ gốc Phi Châu hoàn toàn bầu cho ông.  Qua bao nhiêu lần cố gắng, đây là lần đầu tiên họ có một ứng cử viên gốc Phi Châu có thể tiến xa đến như vậy.  Jesse Jackson, Al Sharpton chưa hề có thể dẫn đầu trong bất kỳ cuộc bầu cử sơ bộ nào, huống hồ chi là đã hơn quá nửa đường.

Nhưng TNS Obama cũng không hoàn toàn chiếm được lòng mọi người trong ĐDC.  Nên nhớ ông chỉ thắng 60%.  Phần cử tri còn lại đã bầu cho TNS Clinton.  Đa số là phụ nữ và những người thuộc giới trung lưu (middle class).  Họ là những người mất mát nhiều nhất dưới thời chánh phủ Bush.  Chánh sách xuất cảng việc làm (outsource) đã khiến bao nhiêu việc làm lương cao biến mất trên nước Mỹ.  Giá xăng tăng hơn gấp đôi khiến vật giá leo thang.  Lương thì không tăng, thậm chí nhiều khi còn bị cắt giảm khiến cuộc sống nhiều gia đình trung lưu trở nên eo hẹp, khốn đốn.  Thêm vào đó, cuộc khủng hoảng địa ốc hiện đang lan tràn khắp nơi khiến rất nhiều gia đình trung lưu phải mất nhà mất cửa. 

Giới trung lưu là giới thiệt thòi nhất trong xã hội Mỹ.  Ước chừng khoảng 80% thuế mà chánh phủ thâu được là từ giới trung lưu, nhưng họ lại được hưởng ít quyền lợi nhất.  Tiền thuế an sinh xã hội (social security contribution) họ đóng là để cấp dưỡng cho những người hưu trí hiện nay.  Họ không được hưởng bất cứ một quyền lợi y tế nào của chánh phủ cả.  Một quyền lợi duy nhất mà họ có thể nhận được là tiền thất nghiệp (unemployment benefit).  Không những thế, giới này đang trở nên ít dần đi.  Nhiều người từ giới hạ trung lưu (lower middle class) đã bị rơi xuống trở thành giới nghèo  khó (lower class).  Nếu dười thời tổng thống (TT) Bill Clinton có nhiều ngừời từ giới trung lưu trở thành triệu phú nhất, thì dưới thời TT Bush có nhiều người từ giới trunh lưu biến thành giới nghèo khó nhất.

Đây có thể là một trong những lý do giới trung lưu dồn phiếu cho bà Hillary Clinton.  Có lẽ họ nghĩ rằng bà sẽ có chánh sách phục hồi và phát triển kinh tế tương tự như chồng bà; và đương nhiên, ủy ban kinh tế của chánh phủ bà sẽ bao gồm những chuyên gia từ chánh phủ Bill Clinton.

Như vậy thì quan điểm giữa TNS Obama và TNS Clinton có gì khác biệt"  Họ khác nhau ở hai điểm quan trọng: bảo hiểm sức khỏe (healthcare) và Iraq.

TNS Clinton chủ trương thiết lập hệ thống bảo hiểm sức khỏe công cộng (universal healthcare) tương tự như các nước công nghiệp tiên tiến như Gia Nã Đại, Anh Quốc, Pháp, Thụy Điển, Uc Đại Lợi, v.v..   TNS Obama thì không tiến xa đến như thế mà chỉ tuyên bố sẽ làm giảm giá bảo hiểm sức khỏe khiến nhiều người nghèo sẽ có được bảo hiểm.

Nếu ai đã hay đang làm việc ở Hoa Kỳ cũng đều hiểu được rằng giá bảo hiểm sức khoẻ khấu trù hàng tháng gia tăng trong vòng 5 năm nay như thế nào.  Bây giờ không ai dám chọn các chương trình PPO mà chỉ có thể chịu nổi các chương trình HMO.  Và ai cũng thừa hiểu HMO nó khổ sở như thế nào.  Giá co-pay mỗi lần gặp bác sĩ cứ tăng dần, từ $10 rồi $15, có khi lên đến $25.  Mỗi lần muốn gặp bác sĩ chuyên môn phải xin phép hãng bảo hiễm, có khi dây dưa đến cả tháng.  Sự gia tăng giá bảo hiểm cũng là một gánh nặng cho các công ty, nhất là những công ty nhỏ cỡ dưới 100 nhân viên.  Vấn đề nan giải này đã khiến nhiều công ty nhỏ phải sa thải nhân viên, có khi phải đóng cửa.  Về phía nhân viên, nếu ai mà đang ở trong khoảng tuổi trên 50 thì rất có nhiều cơ hội họ sẽ bị sa thãi.  Lý do là vì năng xuất họ sẽ kém đi, lương họ cũng khá cao, và một điểm quan trọng nữa là bảo hiểm sức khỏe của họ sẽ rất mắc.  Mà nếu họ bị sa thãi thì họ sẽ không có bảo hiểm sức khoẻ gì cả.  Họ không thể nào cưu mang nổi một chương trình COBRA vì nó rất là mắc.  Họ vẫn chưa đủ 65 tuổi để xin Medicare.  Nếu trong thời gian này mà họ có chuyện gì về sức khỏe thì họ chỉ đành phải chịu vậy.

Hãy thử tưởng tượng một hệ thống bảo hiểm sức khoẻ công cộng.  Tất cả công dân hay thường trú dân đều có thể xử dụng hệ thống y tế do chánh phủ đài thọ.  Dù cho ai có việc làm hay không, họ vẫn được bảo đảm dịch vụ y tế.  Về phía các công ty, họ không cần phải trả tiền bảo hiểm cho nhân viên khiến họ dễ dàng lựa chọn nhân viên.  Chánh phủ sẽ chi phí chương trình này bằng thuế do dân đóng góp.  Điều này có nghĩa là chánh phủ sẽ tăng thuế.  Hiện nay thuế lợi tức của một gia đình trung lưu ở Mỹ là khoảng trên dưới 30%.  Nếu chánh phủ áp dụng kế hoạch này, rất có thể thuế sẽ tăng lên 40%.  Phe chống kế hoạch này sẽ viện lý do tăng thuế để dọa dân chúng.  Ở Mỹ, khi nghe tăng thuế thì ai cũng hoảng sợ, và các chính khách thường xuyên dùng phương cách đe dọa này.

Nhưng nếu người dân khỏi phải đóng tiền bảo hiểm sức khoẻ rồi lấy tiền đó bù qua để trả thuế, như vậy tiền đem về hàng tháng vẫn không thay đổi là bao.  Như vậy thì có gì khác nhau giữa hệ thống bảo hiểm hiện nay và hệ thống bảo hiểm công cộng mà TNS Clinton đề xướng"  Sự khác biệt là ở chỗ mọi người không cần phải lo lắng cho dịch vụ sức khoẻ nữa.  Người dân khỏi cần phải bám víu vào việc làm nhằm để có bảo hiểm.  Sự kinh doanh cũng dễ dàng hơn cho những ai muống khai mở hãng xưởng, và công ăn việc làm sẽ gia tăng.  Hoa Kỳ là một nước công nghệ giàu có duy nhất không có hệ thống sức khỏe công cộng, và dân Mỹ là dân làm việc cực khổ nhất so với các nước tiên tiến khác. 

Về vấn đề Iraq, cả hai TNS Obama và Clinton đều tuyên bố sẽ rút lui; nhưng Obama gia hạn 16 tháng, còn Clinton thì không cho hạn kỳ rõ rệt.

Thử nghĩ xem nếu theo kế hoạch của TNS Obama, Hoa Kỳ sẽ rút lui trong vòng 16 tháng, chuyện gì sẽ xảy ra ở Iraq"  Ở vùng trung đông"  Cộng đồng người Việt hải ngoại chúng ta chắc ai cũng có thể mường tượng ra một 30 tháng 4 nữa.  Chánh phủ Iraq liệu có thể đứng vững được bao lâu"  Iran sẽ tạo áp lực ra sao lên Iraq"  Hoa Kỳ còn có chân đứng ở trung đông nữa hay không"  Nếu Hoa Kỳ ào ạt rút quân khỏi Iraq, căn cứ quân sự duy nhất Hoa Kỳ còn lại ở vùng vịnh là Kuwait.  Hoa Kỳ đã đóng phần lớn các cơ quan quân sự ở Arab Saudi sau khi chiếm dược Iraq.  Liệu Hoa Kỳ còn có ảnh hưởng gì đến chánh phủ Iraq sau này"  Trước khi chế độ Saddam sụp đổ Iraq là một nước mạnh về quân sự.  Các nước lân cận như Iran, Kuwait, Arab Saudi, Jordan, thậm chí Turkey rất sợ Iraq.  Sau khi chiến tranh vùng vịnh lần thứ nhất dưới thời TT H. W. Bush (41), Iraq bị Hoa Kỳ kềm hãm triệt để.  Trong suốt 8 năm từ 1992 đến 2000 dưới thời TT Bill Clinton, Hoa Kỳ đã hoàn toàn phong tỏa Iraq, cả quân sự lẫn kinh tế, và nhờ vậy vùng vịnh rất yên tĩnh.  Nhờ vào chánh sách đổi dầu lấy thực phẩm (oil for food) của TT Bill Clinton, Hoa Kỳ đã nắm chặt hầu bao của các nước đang khao khát dầu để phát triển kinh tế.  Tất cả dầu xuất khẩu khỏi Iraq và lương thực, thuốc men nhập vào Iraq đều phải được sự thông qua của Liên Hiệp Quốc (LHQ), và dĩ nhiên lúc đó Hoa Kỳ có uy tín và ảnh hưởng rất lớn ở LHQ.

Sau khi chế độ Saddam sụp đổ năm 2003 do quyết định tấn công Iraq của chánh quyền Bush, vùng vịnh bỗng như nhà bỏ hoang.  Các nước chung quanh chẳng còn thế lực mạnh nào để lo ngại nữa.  Tất cả đều đứng bên lề chờ xem Hoa Kỳ sẽ dựng chế độ mới ở Iraq ra sao.  Nhưng Hoa Kỳ đã thất bại trong vấn đề bảo an và xây dựng Iraq mặc dù đã chi phí 200 tỷ dollar mỗi năm.  Iran trong thời gian qua đã phát triển mạnh kinh tế và quân sự, và hiện nay có thể họ đang chế tạo vũ khí hạt nhân.  Sự vắng mặt của Hoa Kỳ sẽ khiến Iran trở nên quốc gia quan trọng ở vùng vịnh.

Nhưng nếu không rút quân thì Hoa Kỳ sẽ lưu lại đó cho đến chừng nào"  Hoa Kỳ đã quá lún sâu vào vũng lầy Iraq.  Không thể nào cứ như thế này hoài được.  Quân lính ngày càng khan hiếm.  Các binh sĩ đang tại ngũ đã kiệt sức.  Phải có một ngày Hoa Kỳ rút lui khỏi Iraq.  Nhưng khó mà có thể đoán trước thời hạn là bao lâu thì sẽ thi hành.  TNS Clinton vì thế đã không tuyên bố một thời hạn nào rõ ràng cả.  Trong cuộc tranh luận do CNN tổ chức, bà phát biểu rằng không ai có thể phán quyết thời hạn để rút quân cho đến khi người đó tiếp nhận đầy đủ dữ kiện từ chánh quyền trước.  Tuyên bố một mấu chốt thời gian trước khi thấu hiễu tình hình là non nớt, hấp tấp.

Về phía đảng Cộng Hoà (ĐCH), hôm thứ hai có tin vui cho TNS John MacCain.  Cựu TT H. W. Bush (41) đã tuyên bố ủng hộ cho TNS McCain.  TNS McCain tuy đang là ứng cử viên dẫn đầu trong ĐCH nhưng vẫn chưa được giới bảo thủ (conservative) chấp nhận.  Họ cho rằng ông ta quá thân cận với ĐDC và không chấp nhận chủ trương nhân nhượng đối với vấn đề các người di dân bất hợp pháp.  Mike Huckabee, tuy lẹt đẹt theo sau nhưng nhất định không bỏ cuộc.  Cựu TT Bush phải hàm ý khuyên Huckabee nên bỏ ý định tiếp tục tranh cử vì sẽ tốn kém cho cả đôi bên.  Hiện nay cả hai, TNS McCain và Huckabee đều rất túng thiếu.  Người giàu có nhất trong kỳ bầu cử sơ bộ này của ĐCH là cựu thống đốc Mitt Romney, nhưng ông đã bỏ cuộc và ủng hộ TNS McCain.

Có hai điều lạ xảy ra trong kỳ bầu cử TT này.  Điều lạ thứ nhất là thông thường thì nếu kỳ bầu cử mà rơi vào cuối nhiệm kỳ của TT đương thời, ứng cử viên của đảng đang nắm Toà Bạch Ốc (TBO) phải là phó tổng thống (PTT).  Bush (41) là PTT dưới thời Reagan, Al Gore là PTT dưới thời Bill Clinton.  Nhưng kỳ này ta không thấy ứng cử viên Cheney!  Chẳng hiểu vì lý do gì ĐCH không chọn vị PTT đương kim ra ứng cử.  Tuổi của PTT Cheney cũng chưa đến nỗi già lắm so với một chính khách.  Ông chỉ mới 66, vừa đúng tuổi hưu trí.  TNS McCain còn cao niên hơn PTT Cheney nhiều.  Ông đã 71 mà vẫn còn hăng say phục vụ quốc gia.

Điều lạ thứ nhì là không thấy ai trong TBO ra ủng hộ cho ứng cử viên ĐCH nào cả.  TT Bush chỉ ra tuyên bố bâng quơ là dân chúng ĐCH nên ủnh hộ cho ứng cử viên của đảng mình nhưng không nêu đích danh là ông ủng hộ cho ai.  Thật ra điều này cũng không khó hiểu lắm.  Với sự bất tín của dân chúng nói chung, và dân chúng thuộc ĐCH nói riêng, thì nếu TT Bush mà tuyên bố ủng hộ cho kẻ nào thì coi như dao kề vào cổ kẻ ấy.  Nhưng với cương vị một dương kim TT mà chẳng làm gì cho đảng phái của mình thì cũng bẽ mặt quá; nên chắc có lẽ vì thế TT Bush phải lên tiếng cho có lệ.

Riêng giữa TT Bush và TNS McCain thì đã từng có xích mích.  Trong lần bầu cử sơ bộ năm 1999, TNS McCain bất thình lình thắng ở New Hampshire.  Bush, lúc đó đang là thống đốc (TDD) band Texas, quá hoảng sợ bèn tung trò bẩn, thoá mạ TNS McCain ở South Carolina.  Ngày mà thống kê thăm dò dư luận (poll) cho thấy TNS McCain thắng TDD Bush 5%, Bush cùng với một cựu chiến binh tên J. Thomas Burch lên án TNS McCain đã bỏ rơi các tù binh chiến tranh và các binh sĩ mất tích ở Việt Nam và vấn đề chất da cam (agent orange).  TNS McCain trả đũa qua các quảng cáo truyền hình (ads), cáo tội TDD Bush nói láo và so sánh Bush với TT Bill Clinton.  TDD Bush dựa vào đó, cho là bị sỉ nhục (")  Trong lúc đôi bên đang ấu đả dữ dội thì bỗng nhiên có một tổ chức ngấm ngầm hoạt động.  Họ không nêu rõ thuộc tổ chức nào và chỉ dùng e-mail, fax, và thư rơi (flyer), bôi nhọ TNS McCain một cách trắng trợn.  Họ nói rằng TNS McCain đã từng có con vơi một người da đen.  Thật ra TNS McCain có nhận một đứa con nuôi tên Bridget người Bangladesh.  Họ còn tung tin rằng là bà vợ của TNS McCain, Cindy, nghiện thuốc phiện, rằng là TNS McCain là người đồng tính luyến ái.  TNS McCain giận vô cùng và đã buộc tội TDD Bush là thủ phạm.  Dĩ nhiên TDD Bush từ chối phăng, còn tuyên bố rằng nếu biết được ai trong nội bộ của ông làm như vậy là sẽ đuổi cổ ngay.  Nhưng đây không phải là lân đầu tiên người ta thấy trò bẩn thỉu này.  Nó đã xảy ra một lần trước ở Texas khi Bush đang tranh cử thống đốc tiểu bang với bà Ann Richards.  Cuộc bầu cử sơ bộ của ĐCH ở South Carolina năm 1999 được xem là cuộc tranh đua chính trị dơ bẩn và gớm ghiếc nhất trong lịch sử Hoa Kỳ.

 TNS John McCain là một người rất cương trực.  Ông luôn hãnh diện về lý lịch của mình trong quá trình hoạt động chính trị.  Qua các lần nói chuyện, tranh luận của các ứng cử viên cả hai đảng Dân Chủ và Cộng Hòa,  nếu ai để ý sẽ thấy TNS Clinton ít khi nào nêu đích danh hay có vẻ khiêu khích TNS McCain.  TNS Obama thì ngược lại, rất thường xuyên nêu tên và khiêu khích McCain.  Điều đó cho thấy phần nào sự kính trọng của TNS Clinton đối với TNS McCain.

Phụng sự quốc gia là một trọng trách và vinh dự.  Sự tranh đấu trên chính trường là một quá trình mà chính khách nào cũng phải trải qua.  Tuy mục đích là điều quan trọng nhất, nhưng sử dụng phương tiện nào để đạt được mục đích mới cho thấy rõ bản lãnh của người ấy.  Cuộc tranh cử sơ bộ kỳ này ngày càng cam go.  Đây quả thật là một dịp hiếm có để toàn dân có thể nhìn thấy một cách rõ ràng kỷ cương và phong độ của các ứng cử viên.

(Ghi chú: Baì viết là quan điểm của tác giả, không phản ảnh quan điểm tòa soạn.)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.