Hôm nay,  

Cho Những Linh Hồn Còn Lẩn Khuất Quanh Đây

11/04/202111:02:00(Xem: 4377)



1.

Bằng ngôn ngữ không chủ từ, bằng câu kệ không đầu đuôi, tôi cố thuyết phục bệnh nhân rằng chết không phải là chọn lựa thích hợp, rằng đâu đó trên thế gian này vẫn còn một người yêu thương cô hơn yêu thương chính mình, rằng trong những thứ con người có được, không gì quý bằng mạng sống. Tôi nói cho một mình tôi nghe. Tôi kể chuyện mẹ tôi. Tôi kể chuyện cha tôi. Tôi kể chuyện em gái tôi. Tôi kể chuyện nửa đêm tôi quýnh quáng lại nhà người bệnh. Con mắt đứa bé đã đứng tròng, chân tay co giật từng hồi. Đã muộn mất rồi. Nhưng người mẹ khóc lóc nài van. Chích cho cháu mũi thuốc hồi sinh. Hay thuốc gì cũng được. Miễn là có chích. Biết đâu cháu nó lại không chết.

“Có nên vô thăm con nhỏ đó không?” Cô y tá hỏi tôi.

Những người mới ra trường - mà thiên hạ gọi đùa là ma mới - hay hỏi lẩn thẩn. Cách tốt nhất là đừng bận tâm trả lời. Tôi ngó đôi mắt một mí rồi đón lấy tập hồ sơ mỏng, nhìn lướt dòng chữ nguệch ngoạc mà đêm trước loay hoay với con bệnh, tôi đã sai y tá viết vội.

Cái tên đồng quê, nơi những bụi chuối rì rào sau khoảng vườn xanh um cây trái. Cái tuổi là của một người vừa bắt đầu biết liếc dọc liếc ngang khi đi qua quán nước có bọn trai trẻ ồn ào cụng ly, gõ muỗng. Tôi nheo mắt cố nhớ cái địa danh ở tuốt đâu trong xó kẹt một huyện lỵ miền sông Hậu, nơi phải quá giang đò máy mỗi lần ra phố chợ.

“Ông thầy nhớ cẩn thận,” cô y tá dặn dò. “Hồi hôm con nhỏ đó dợt bác y công ể mình luôn.”

Tôi nhìn cái dáng mỏng như tàu lá chuối, “Sao vậy?”  

“Ông thầy hỏng tin hả.” Cô đẩy khẽ tôi đứng yên một chỗ rồi chạy vụt đi. Cái bóng nhỏ bé trong chiếc áo choàng lùng thùng luồn lách giữa những giường bệnh, ghế ngồi, chiếu rách và người chen chúc nhau trong khoảng hành lang hẹp. Cái bóng thoăn thoắt gợi nhớ đến đám chuột nhắt thường xục xạo kiếm ăn ở phòng trực. Những con chuột bé tí nhưng khôn và nhanh hết biết.

Vài giây sau cô trở lại, kéo theo người y công. Nhùng nhằng như hai người bắt nợ. “Ông thầy coi mặt chú Tư nè. Sưng thấy sợ luôn.”

Tôi nhìn cái trán giồ lên một cục mầu đỏ thẫm, “Sao vậy?”

“Con nhỏ đó đó.” Cô y tá trả lời hớt.

Người đàn ông thấp bé đưa tay đỡ một bên đầu, nheo mắt suýt soa. “Hồi đêm con nhỏ tỉnh dậy, thấy nó khát nước tội nghiệp, tui đem nước cho nó uống ai dè nó quăng cái ly lên đầu tui. Đồ quỷ cái.”

Tôi chạm ngón tay lên u trên trán người y công. “Có nhức không, lấy thuốc trong phòng khám uống đỡ.”

Người đàn ông lắc đầu. “Nhằm nhò chi đâu ông thầy.”

“Hổng sao đâu, chú Tư bị thím Tư uýnh hoài à.” Ma mới chêm vào rồi che miệng cười khúc khích. Chuyện bác y công bị vợ đánh xưa lắm rồi, chỉ ai mới nghe lần đầu mới có thể bật cười như thế. Cô y tá này chưa được bà trưởng phòng nhân viên huấn luyện kỹ lưỡng. Bệnh nhân và người nhà nằm ngồi la liệt thế này mà y tá, y công đùa giỡn thì còn gì thể thống.

Thấy tôi chăm chú nhìn vào hồ sơ bệnh lý, con ma mới và người y công kín đáo liếc nhau rồi ngập ngừng bước về phía phòng “săn sóc đặc biệt”.

Nghe có vẻ trầm trọng, thực ra chỉ là căn phòng cũ kỹ, hôi mốc mà nhân viên đã cố làm cho ra vẻ “chuyên môn” bằng cách kéo lên những bức vách xiên xẹo rồi tẩm thật nhiều mùi cồn và thuốc sát trùng lên nền nhà và những tấm khăn trải giường.

Vào phòng săn sóc đặc biệt, hai người chia nhau đứng hai bên giường bệnh như sẵn sàng ra tay can thiệp khi có chuyện bất ngờ. Bốn con mắt dán vào cái khối lùng nhùng chăn gối võng xuống trên chiếc giường cũ mà lò so đã giãn tới cực độ.

Cô y tá run run giở mép tấm khăn, thì thào, “Thắm ơi, Thắm à!”

Tiếng thở phì phò vọng ra từ dưới lớp vải. Vệt vàng sậm loang trên tấm khăn trông giống hình một bàn tay bốn ngón. Cái thân người nằm nghiêng co quắp ấy khẽ nhúc nhích. Hai chân hơi duỗi ra. Một bên vai lay động, chiếc lưng uốn éo.

Tôi gấp hồ sơ lại, bước tới bên giường. Đã ngửi không biết bao nhiêu năm tháng cái mùi phòng săn sóc đặc biệt mà tôi vẫn không khỏi thấy ngứa hai hốc mũi. Cái ngứa sần sượng khiến mình chỉ muốn luồn chiếc bàn chải nhỏ vào mà chà sát cho thoả thuê.

Cô y tá lay nhẹ chỏm vai người bệnh, “Thức dậy, sáng rồi.”

Tiếng ậm ừ trong cuống họng luồn ra khỏi chiếc gối ủ quanh đầu và lớp vải khăn trải giường cũ kỹ nghe xa xôi như vọng ra từ trong vách tường xi măng tróc lở. Bàn tay cô y tá lay mạnh hơn. Âm thanh ngầu đục lại phát ra, lần này nghe như tiếng gầm gừ của con thú bị bỏ đói lâu ngày.

Giọng cô y tá gấp gáp hơn, “Thức dậy, Thắm à.”

“Hổng muốn thức.”

Trong chuỗi âm thanh sần sượng tôi nghe ra ba chữ ấy. Chắc cô y tá cũng nghe được nên cô hăng hái kéo bật hẳn góc khăn trải giường ra khỏi đầu người bệnh. Góc khăn tuột ra nhưng khuôn mặt vẫn vùi sâu dưới tấm gối trắng. Mảng tóc đen lòa xòa trên nệm.

Người y công đánh nhịp bàn chân phải. Trong mắt anh ta thẫm cái mầu tối ám.

“Tui hổng muốn thức. Tui muốn chết.”

Câu nói mạch lạc luồn ra từ chiếc gối nhàu. Cánh tay vòng quanh đầu như vòng gai cứu chuộc. Những móng dài tróc loang lổ. Buổi chiều hôm trước, lúc rửa ruột cho bệnh nhân, tôi không để ý cái màu sơn máu bầm ấy.

“Tui hổng muốn thức. Để tui ngủ luôn.”

Cô y tá lắc nhẹ chiếc vai gầy, “Nói gì nói lại nghe coi.”

Tôi chưa kịp nói gì thì ngưòi y công xen vào, “Thức dậy cho bác sĩ khám bệnh.”

Tấm khăn đắp nhăn nhúm như mặt nước ém con sóng ngầm. Bất chợt mặt nước ấy bung ra thành lòng sông sủi bọt giữa những đợt sóng cuồng. Bàn tay móng đỏ giật mặt gối sang một bên. Cái đầu rũ rượi rồi cả thân hình nhàu nhò xoay lại phía giọng đàn ông vừa mới phát ra, “Bác sỉ hả. Thằng cha bác sỉ bất nhân đó hả. Chả còn lại đây làm chi!”

Cả thân người vùng vẫy như con cá bị đập đầu. Hai chân đạp nhùng nhằng trong tấm khăn. Thân thể oặt oẹo cơn động kinh hoảng loạn, “Tui hổng muốn thấy mặt cái người bất nhơn. Kêu thằng chả đi đi.”

“Thắm à. Thắm.” Cô y tá vừa luống cuống đặt hai bàn tay lên vai ngưòi bệnh vừa rối rít gọi. “Thắm ơi. Ngoan đi cưng. Ngoan đi mà. Bác sỉ H. nè, bác sỉ H. đã cứu Thắm hồi hôm qua đó, biết không?”

“Bác sỉ hả, bác sỉ gì mà dô nhân đạo dị chớ.”

Cái đầu lắc lư, tóc rối như miếng bùi nhùi rách. Con mắt nhắm nghiền, răng nghiến vào nhau. Hai tay vung đập cả lên thành giường. “Mấy người đi hết đi.” Rồi con mắt bỗng nhiên trợn trừng. Tay vồ lên mặt cào cấu. Mười vệt móng tay vạch đỏ lừ hai má. Những đường kẻ răng cưa tươm máu. Cái lưỡi tím ngắt thè dài, nhớt rãi trào ra. “Mấy người hổng đi tui cắn lưỡi tự sát cho mà xem.”

Âm thanh đọng lại nơi hai hàm răng kềm chặt chiếc lưỡi nhầy nhụa nước bọt.

Lúc ra ngoài hành lang, cô y tá đi sát vào tôi, thì thầm. “Đúng là làm ơn mắc oán, thày há.”

Phải trả lời sao đây. Nếu coi là việc phải làm thì có chi là ơn nghĩa và có gì đáng gọi là oán. Ý nghĩ xoay trong đầu. Nhưng đó đâu chỉ thuần túy là công việc. Thân xác tím bầm vật vã trên chiếc giường xô lệch đâu thể coi như chiếc máy bơm hư, chỉ cần thay những ống cao su mới. Trong cái thân thể nhàu nhò ấy còn cả một thế giới tâm linh.

“Nhắm chừng con nhỏ có sống được hông, hả thày?”

Thân thể mỏng gầy của cô chạm nhẹ vào người tôi trong lúc rảo bước nhưng câu hỏi thì chạm mạnh vào một góc vắng tư duy. Trong một giây, cái thắc mắc ngàn đời ấy khuấy động cả tâm tư người thầy thuốc. Niềm tự hào bốc lên như luồng hơi nóng trong nồi nước tự ái đang sôi.

“Sống chứ,” tôi quả quyết. “Dù cô ta không muốn sống cũng không được.”

Rồi tôi ngưng ngay câu nói. Kẻ nào đó trong tôi nhắc nhỏ rằng nói năng như thế có quá đáng không. Hình ảnh những lọ thuốc lem luốc, những bọc nước biển đục lờ, những ống chích với kim tà đầu xài đi xài lại, những dao kéo cùn mằn kéo nhay vết mổ diễu hành trong trí. Nhưng bên những trang bị nghèo hèn ấy còn một thứ mà bệnh nhân của tôi có thể sẽ cần đến, thứ ấy là hàng ngoại, quà tặng nhân đạo từ Bắc Âu. Thế nên tôi tạm yên lòng.


2.

Ngoài ba mươi tuổi. Những nếp nhăn trên trán và mái tóc lốm đốm sợi bạc khoe với cuộc đời như thế.

“Anh là người nhà của cô Thắm à?”

Hai bàn tay đang thả xuôi theo thân mình, bắt gặp câu hỏi, vội xoắn vào nhau. “Dạ thưa…” Một chút ngần ngừ. Hai con mắt ngó nghiêng. Rồi hai con mắt vẽ xuống nền xi măng lồi lõm câu trả lời vòng quanh những nét bút chì trẻ con nguyệch ngoạc trang giấy.

“Dạ hỏng phải người nhà.”

Tôi nhìn những ngón tay như những đốt mía gầy guộc tìm chiếc nhẫn làm tin. Nhưng những ngón tay anh chỉ đeo đầy vết sẹo. Sao mà ngây ngô. Tôi mắng mình như thế. Xứ sở miếng ăn còn không có, nói gì chiếc nhẫn đính hôn giữa những kẻ yêu nhau.

“Hay là bạn?” Tôi hỏi.

Cái đầu toan lắc bỗng gật dồn dập như chiếc dùi gõ hoang lên mặt trống. Con mắt nhìn tôi. Cái nhìn lo âu của đứa bé ăn trộm sợ chủ nhà phát hiện thêm món đồ còn giấu trong cạp chiếc quần tây nhăn nhúm.

“Tôi hỏi vì tôi muốn biết thêm chi tiết về cô ấy mà điều trị cho đúng.” Rồi nhìn những ngón tay đang xoắn lấy nhau trước cái bụng hõm vào sát xương sống, tôi nói nhỏ, đủ cho một mình anh ta nghe. “Tôi không phải công an, đừng sợ.”

“Dạ, tui mang ơn.” Câu nói cũng nhỏ đủ để một mình tôi nghe thấy.

Anh đứng trơ ra đấy. Cái mặt cúi gằm, con mắt nhỏ. Tia nhìn lấp ló phía sau hốc mắt sâu. Vành xương ổ mắt cong và vồng lên như vết điêu khắc trên pho tượng thạch cao làm cho tia nhìn sâu hun hút.

“Vào đây cho tôi hỏi thăm vài chuyện.”

Hai bàn tay đặt lên nhau ngại ngần, “Dạ.”

Tôi xoay lưng bước đi. Được vài bước tôi quay lại. Người đàn ông vẫn đứng đó. Tôi dừng lại, nhướng mắt nhìn anh ta. Hai bàn tay vẫn đắp lên nhau. Những ngón sần sượng xoắn xuýt. Rồi cặp môi thâm co lại, vạch ra những chiếc răng khập khiễng.

Tôi đưa tay, vạch một cử chỉ mơ hồ. “Vào phòng trực, tôi hỏi chút chuyện.”

Hàm răng mở ra. Câu nói phều phào như hơi thở. Dẫu khoảng cách chỉ ba bước chân, tôi vẫn không nghe được cái câu anh nói. Tôi bước ngược về phía anh.

Đợi tôi đến gần, anh thì thào, “Sợ em Thắm hổng chịu.”

Tôi ngạc nhiên, “Sao vậy?”

Co người lại như cố giấu mình ở phía sau một thân cây vô hình, tránh luồng gió lạnh, anh nhìn quanh, nhớn nhác.

“Sao lại sợ cô ấy không chịu? Mà không chịu cái gì?”

“Hổng cho gặp.”

Tôi nhìn chăm chú vào con mắt sâu, “Sao lại không cho?”

“Tại em Thắm hổng thương.”

Bọn y tá y công trong trại bệnh tất tả với công việc nhưng chẳng người nào quên ném về phía chúng tôi cái nhìn soi mói. Cái tin bác sĩ trưởng khoa nội bị bệnh nhân xỉ vả giữa thanh thiên bạch nhật chỉ một buổi là lan rộng khắp thị xã. Nhân viên các trại bệnh tạt ngang phòng trực hỏi thăm xa gần. Những con mắt ái ngại giùm cái đời “làm ơn mắc oán” nhưng cũng có những ánh mắt xét nét, hả hê.

Tôi nắm lấy tay áo anh, kéo về phía phòng trực. Anh cưỡng lại một chút rồi nhùng nhằng bước theo, như đứa học trò hư bị giám thị lôi vào phòng hỏi tội.

Ngồi xuống đây đi. Tôi khẽ đẩy anh vào chiếc ghế có lưng dựa bằng nệm vải.

“Dạ, cho tui đứng, tui mang ơn.”

Tôi nhìn vào con mắt sâu, “Anh biết cô Thắm bị gì không?”

“Dạ biết, em Thắm tui uống thuốc tẩy tự sát. Mấy người học chung lớp đổ thừa em Thắm tui ăn trộm chiếc cà rá, em Thắm tui hổng có lấy. Tui biết em Thắm tui hổng bao giờ làm chuyện đó. Dù em Thắm tui không thương tui, bỏ tui lên tỉnh học nhưng tui hống giận em Thắm tui. Tui biết em Thắm tui hổng tham lam. Hổng ai tin em Thắm tui, em Thắm tui uống thuốc tẩy để minh oan. Em Thắm tui có bề gì tui sống với ai.”

Cái mặt cúi gằm bỗng ngước lên, vẩy ra những giọng nước mắt.

“Mà em Thắm tui có sao hông bác sỉ?”

Anh ngừng lại để thở. Nước mắt lăn dài hai gò má. Hai bàn tay vẫn níu lấy nhau, mặc cho nước mắt khơi dòng. Tôi nhìn đám bệnh nhân và thân nhân hiếu kỳ lấp ló ngoài khung cửa, vẫy tay ra dấu cho họ để chúng tôi yên. Thiệt tình, cánh cửa phòng trực không biết đến bao giờ mới sửa xong.

“Nhắm chừng em Thắm tui có sống được hông, bác sỉ?”

Anh lặp bặp câu hỏi.

“Sống chứ.” Câu trả lời của tôi đầy ắp tự tin. Vấn đề là làm sao thuyết phục cho cô bệnh nhân ấy yêu được cuộc sống này, để mai mốt về, cô không phải tìm cách quyên sinh nào khác. Nhưng tôi không thể nói với anh điều đơn giản ấy.

“Cô Thắm sẽ hết bệnh, sẽ về...” Tôi ngưng ngang. Sẽ về đâu. Ngôi trường có nhà tập thể nơi người ta nghĩ cô là quân trộm cắp hay về với người thanh niên chất phác đến ngẩn ngơ này.

“Dạ, tui mang ơn.”

Câu nói và cái gật đầu nhanh nhảu của anh gỡ tôi ra khỏi cái điều khó nói.

Anh vừa đi khỏi, ma mới lách ngay vào phòng trực. Và ném xuống mặt bàn gỗ câu hỏi quen thuộc, “Nhắm chừng con nhỏ đó có sống không hả thày?”



3.

Chiếc giường trĩu nặng. Không gian võng xuống cái mùi thân thể đã lâu không tắm gội. Tôi nói cho một mình tôi nghe. Tôi kể đủ thứ chuyện. Chiếc ghế có lưng tựa lung lay và bốn chân lỏng lẻo biết than van vì sức nặng kẻ ngồi lên nó. Tôi nhúc nhích để chiếc ghế nhắc nhở xa xôi với bệnh nhân rằng chuyện tôi kể sẽ không bao giờ có đoạn kết. Và tôi sẽ ngồi đây mỗi tối. Trong căn phòng này, nói chuyện với bốn bức tường, với những linh hồn lẩn khuất trong bệnh viện vẫn mỗi tối, trong cái chập choạng của buổi hoàng hôn, lũ lượt kéo nhau về qua chốn này. Tôi kể chuyện mẹ tôi. Tôi kể chuyện cha tôi. Tôi kể chuyện em gái tôi. Tôi kể chuyện nửa đêm tôi quýnh quáng lại nhà người bệnh. Con mắt đứa bé đã đứng tròng, chân tay co giật từng hồi. Muộn mất rồi. Nhưng người mẹ khóc lóc nài van. Chích cho cháu mũi thuốc hồi sinh. Hay thuốc gì cũng được. Miễn là có chích. Biết đâu cháu nó lại không chết. Mũi kim nhọn ánh lên dưới ánh đèn dầu trong đêm tối. Lần nào kể đến đó tôi cũng ngừng lại bởi tiếng thở rất đều cái nhịp bình yên của đứa bé say ngủ. Cô gái mười chín tuổi. Cô ngủ dễ như trẻ thơ.

Biết đâu cháu nó lại không chết. Mũi kim nhọn ánh lên dưới ánh đèn dầu trong đêm tăm tối. Lần này kể đến đó tôi không ngưng vì hơi thở đều nhịp mà vì tiếng sụt sùi. Khuôn mặt mà tôi chỉ thấy được khi cô ngủ say đang áp sát vách tường. Mùi vôi khô chắc phải quyện vào hơi thở. Cô nhất quyết không thèm nhìn mặt cái kẻ đã giữ cô lại nơi chốn trầm luân. Và cô tịnh khẩu kể từ cái hôm đòi cắn lưỡi ngay trên chiếc giường này.

Nhưng sao tiếng khóc tấm tức ấy lại làm lòng tôi bình yên.


4.

“Thày ăn mì hông thày?” Ma mới hỏi và đứng yên chờ câu trả lời.

Mình có ăn mì không. Tôi thầm hỏi tôi.

“Hay hủ tíu Mỹ Tho?” Ma mới hỏi tiếp.

Mình có ăn hủ tíu Mỹ Tho không. Tôi lại nghe tôi hỏi tôi như thế.

“Hay thày thích hủ tíu Nam Vang?” Ma mới nhanh nhảu đổi qua món khác.

Mình có thích hủ tíu Nam vang không. Tôi lại hỏi tôi. Hủ tíu Nam Vang thì có gì trong đó và khác hủ tíu Mỹ Tho chỗ nào. Tôi hoàn toàn không nhớ ra. Chắc chắn giống nhau ở những sợi hủ tíu trắng tinh.

“Thày,” con ma mới gằn giọng.

Và tôi bắt đầu bực mình, “Cô đói thì đi ăn đi, tôi không đói.”

Nhưng ma mới không chịu thua. “Em mua về cho thày, thày khỏi mắc công đi. Từ trưa tới giờ thày chưa ăn gì mà.”

Tôi vẫn dán mắt vào cuốn cẩm nang in đầy tiếng nước ngoài. Trên trang giấy bóng, những hình ảnh nhảy múa như đám nghệ sĩ non tay nghề cố dành chỗ đứng trên chiếc sân khấu hẹp.

“Thì mua gì cũng được.”

“Hủ tíu Nam Vang hay hủ tíu Mỹ Tho hả thày?”

“Gì cũng được.”

“Hủ tiếu Mỹ Tho được không thày?”


Khi muốn được chú ý, người ta dễ thành lố bịch. Tôi nghĩ vậy, và tôi dùng tất cả sức lực đang có trên tay để gập cuốn sách lại thay cho một lời giận dữ. Nhưng khi ngước lên, bắt gặp đôi mắt có tia nhìn khẩn thiết, lòng tôi chùng xuống. Giọng tôi mềm oặt, “Mua giùm tôi tô cháo lòng.”

Đôi mắt chợt tròn xoe. “Vậy mà thày nói gì cũng được.”

Cô xoay lưng dợm bước nhưng đôi chân bất ngờ sựng lại. Tóc lòa xòa trên trán. Tóc đùa cái lưng thon. Môi mỏng như miếng mứt dừa.

“Nhắm chừng con nhỏ đó có sống được hông hả thày.”


5.

Bằng ngôn ngữ không chủ từ, bằng câu kệ không đầu đuôi, tôi cố thuyết phục bệnh nhân rằng chết không phải là chọn lựa thích hợp, rằng đâu đó trên thế gian này vẫn còn một người yêu thương cô hơn yêu thương chính mình, rằng trong những thứ con người có được, không gì quý bằng mạng sống. Tôi nói cho một mình tôi nghe. Tôi kể chuyện mẹ tôi. Tôi kể chuyện cha tôi. Tôi kể chuyện em gái tôi. Tôi kể chuyện nửa đêm tôi quýnh quáng lại nhà người bệnh. Con mắt đứa bé đã đứng tròng, chân tay co giật từng hồi. Muộn lắm rồi. Nhưng người mẹ khóc lóc nài van. Chích cho cháu mũi thuốc hồi sinh. Hay thuốc gì cũng được. Miễn là có chích. Biết đâu cháu nó lại không chết. Mũi kim nhọn ánh lên dưới ánh đèn dầu trong đêm tăm tối. Vậy mà thằng bé lại sống, cô Thắm biết không. Bây giờ cô Thắm biết thằng bé ấy đang làm gì không. Nó học y tá. Nhà nó nghèo không vào trường y được nhưng nó nhất định làm y tá để cứu người. Cô gái vẫn nằm nghiêng quay mặt vào tường. Lạnh băng tượng gỗ. Đôi vai khẽ chuyển động như vật trôi bồng bềnh trên mặt sóng. Tôi thầm đếm nhịp thở bệnh nhân. Rất đều. Dấu hiệu nguy kịch đã qua. Thần kinh ổn định. Bao tử chắc xốn xang ít nhiều nhưng rồi cũng bình yên. Có lo là lo hai trái thận vất vả lọc ra những chất độc. Rồi chỉ cần thuyết phục cô một cách đơn giản rằng chả tội gì phải chết. Nhưng chỉ điều nhỏ nhoi ấy thôi cũng đã vô cùng khó khăn. Tôi nói chuyện với bốn bức tường vôi trắng. Tôi nói chuyện với lũ sóng bạc nhược dắt díu nhau trải lên bờ cát những vẩy bọt xám. Biển ở bên kia con phố le lói ánh đèn. Ngày xưa có thời tôi nghĩ sống hay chết cũng vậy thôi. Cái thời mới vào đại học. Cái thời suy tư triết lý trẻ con. Cuộc sống đầy những mâu thuẫn. Có bao nhiêu người cố bám lấy sự sống một cách vô vọng. Chiến tranh. Sự nghèo đói, bệnh tật. Nỗi đau đớn thể xác, sự khổ đau tâm hồn. Tôi nói dông dài như gã bán thuốc dạo trong gánh xiệc. Tôi nói với bốn bức tường. Tôi nói với những ngày còn đi học của tôi. Tôi nói với những người bệnh mà tôi đã xuôi tay bỏ cuộc trong trận giằng co với Thần Chết. Tôi quên là cô bệnh nhân của tôi mới mười chín tuổi, cái tuổi bắt đầu biết chọn mầu sơn móng tay cho đẹp mắt. Thì đã sao. Nếu cô ấy không nghe thì tôi nghe. Và bốn bức tường này cũng nghe. Cả những người đã chết trong căn phòng này mà linh hồn còn lẩn khuất quanh đây cũng nghe. Còn nữa, những nhân viên trực đêm đang lấp ló bên ngoài khung cửa, tai ép sát vách tường, lắng nghe tôi trò chuyện. Cuộc chiến đấu gay go. Chúng tôi mới chỉ thắng trận đánh thứ nhất. Chúng tôi mới chỉ đổ quân xuống được một đầu cầu. Nhưng tôi vẫn kiên trì kể lể. Tôi kể chuyện cho cả thế gian cùng nghe.

Chợt cô bệnh nhân của tôi trở mình, tôi nín thở chờ một cơn phẫn nộ. Tôi nghe được cả tiếng những trái tim đập lỡ nhịp ngoài khung cửa. Giầy dép lao xao dẵm lên nhau. Nhân viên trực đang săn tay áo, chuẩn bị giải cứu tôi. Nệm giường nhún nhẩy theo cái trở mình. Chiếc vai xuôi nghiêng. Bệnh nhân bỗng dưng xoay người ra phía tôi. Con mắt ướt nhòe. Con mắt nhìn tôi. Trong tia nhìn có chút gì đó như ánh nắng le lói sau cơn giông.

“Con gặp người đó được hông?”

Câu hỏi bất ngờ làm lồng ngực tôi thắt lại. Có tiếng reo vui hớn hở nào đó bị nén lại bên ngoài khung cửa. Tôi hình dung đám nhân viên ôm lấy nhau mừng rỡ như khi gặp lại nhịp đập hồi sinh của trái tim bệnh nhân hấp hối.

“Người nào, cô Thắm muốn gặp người nào?” Tôi lắp bắp.

“Cái người học y tá đó.”

Tiếng reo hò trong lòng tôi át cả tiếng cười nói vỡ òa ngoài khung cửa.

“Thắng rồi, mình thắng rồi.” Giọng ma mới - không lẫn được với ai - hòa với giọng đàn ông trầm đục. “Vậy là em Thắm tui chịu sống rồi.”

Cô níu lấy bàn tay tôi. Những móng dài sắc cạnh cứa lên da thịt tôi như khắc ghi lời nguyền.

“Con hổng muốn chớt đâu, con nhớ nhà, con nhớ má con, con nhớ ngoại con. Bác sĩ đừng bỏ con chớt tội nghiệp...”

“Không bỏ đâu.” Tôi luống cuống với cơn xúc động.

“Bác sỉ phải hứa hổng bỏ con.”

“Hứa,” tôi trả lời, lòng đầy ắp niềm tin. Cô nuốt nước bọt một cách khó khăn; nụ cười nhòe nhoẹt chợt méo xệch trên khuôn mặt trẻ thơ.


6.

Cơn mê nhận chìm người bệnh vào đêm tối. Những con số nhảy múa trên tờ kết quả xét nghiệm. Những con số khốn nạn khiêu khích chúng tôi. Những con số trần truồng khiêu vũ trên vũng mầu trắng bệch của làn da sũng nước. Lay gọi vô phương. Mới nói chuyện sáng nay, giờ đã mê man gỗ đá. Mới tíu tít kể cho nghe về những buổi chống ghe lùa bầy vịt hàng trăm con kêu réo vang động một góc trời đã con mắt lạc thần, ngón tay co quắp.

Tôi giộng mạnh cái ống nghe điện thoại như gõ cho rụng bớt bụi bặm đóng trong đầu những người quyền thế ở đầu dây kia.

“Anh cần máy lọc thận làm gì?” Kẻ nào đó lập lại cái câu cũ rích.

Tôi muốn hét vào mặt cái kẻ giằng co ở đầu kia nhưng cô y tá đứng ngay trước mặt tôi, hai tay chắp lại, van xin.

Bọn họ nói nhiều quá. Đủ thứ lý do. Tôi chỉ mượn lại cái máy ấy ít hôm. Phái đoàn y tế Thụy Điển qua thăm cho chúng tôi cái máy làm phép lạ ấy nhưng bọn họ lấy đi. Chúng tôi tranh luận với nhau đủ cách. Rồi bọn họ lại hỏi tôi cần máy lọc thận làm gì. Tôi đã nói bệnh nhân của tôi suy thận cấp tính. Họ lại hỏi vì sao suy thận. Rồi kẻ nào đó nói vọng vào rằng có phải con bé uống thuốc tẩy màu để tự tử đó không. Đáng đời quá rồi. Kẻ nào đó cười rộ lên thích thú. Có phải con bé chửi ông như tát nước vào mặt đó không. Chuỗi cười dài như những toa xe lửa chạy sầm sập trên đoạn đường sắt bắc ngang óc não tôi.

Cô y tá quơ tay ra dấu. Cái miệng thì thào. Môi mỏng như miếng mứt dừa ngày tết. Đầu lắc cuống cuồng. “Đừng nổi nóng, ông thày ơi. Nổi nóng hư chuyện hết ráo trọi!” Nhưng không nổi nóng sao được. Tôi đã làm đơn xin mượn cái máy làm phép lạ ấy ngay khi rửa ruột xong cho bệnh nhân.

Quân khốn nạn!

Răng tôi cắn chặt môi dưới. Thế nào cũng có máu bầm. Vết bầm trên môi đặm mầu như bị cắn khi được hôn.

“Bảo nó ráng chờ tới tháng sau đi!”

Kẻ kia nói thế rồi đập cái ống nghe xuống mặt bàn. Tai tôi điếc ù. Vậy là xong.

Tôi nhìn cái ống nghe điện thoại. Tôi căm thù cái điện thoại đen bóng này biết chừng nào. Tôi vừa mới thuyết phục được cho một người ham sống. Tôi vừa mới hứa sẽ không bỏ người ta. Mười chín tuổi, vừa mới bắt đầu yêu lại cuộc đời.

Cô y tá mỏng như trang giấy. Trang giấy nhìn tôi. Trang giấy sột soạt. Con mắt một mí long lanh ngấn nước. Cánh môi mấp máy cái điệp khúc xưa quá là xưa, “Nhắm chừng con nhỏ đó có chết hông hả thày?”

Hoàng Chính

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.