Hôm nay,  

Khai Diễn ‘chiến Dịch Pakistan’?

21/07/200700:00:00(Xem: 8175)

Hai Tổng thống Bush và Musharraf đang ngờ, đang chờ, đang nhờ nhau"
Sau khi một số Nghị sĩ Cộng Hoà bày tỏ sự hoài nghi về chiến lược Iraq của Tổng thống Goerge W. Bush, Thượng viện Hoa Kỳ đã qua một đêm không ngủ để rồi ngủ gục với kết quả biểu quyết dự luật rút quân là 52-47: chỉ có bốn Nghị sĩ Cộng hoà phất cờ trắng nhảy qua phe phản chiến. Như vậy, Thượng viện không đủ 60 phiếu để vượt qua ải "câu giờ" của đảng Cộng hoà và chặn nổi lá phiếu phủ quyết của Tổng thống.
Chuyện ấy có thể là hài kịch hàng tuần của Quốc hội Mỹ ở giữa thời chiến. Cho nên, không phải vô cớ mà Quốc hội đó chỉ còn được 24% dân chúng ủng hộ, thấp hơn tỷ lệ được gọi là thấp kỷ lục của ông Bush.

Đáng nói hơn cả là tình hình thực tế ở (các) vùng hoả tuyến.
Tuần qua, Pakistan mới là điểm cực nóng của vùng hoả tuyến.
Ngày 19, hơn 50 người đã thiệt mạng vì hàng loạt những vụ đánh bom tự sát của quân khủng bố xưng danh "Thánh chiến" (Jihad). Sau khi lực lượng an ninh Pakistan tấn công ngôi đền đỏ (trung tâm giáo huấn và đào luyện các phần tử Hồi giáo cực đoan) vào ngày 12 tháng Bảy tại Islamabad, thì tổng cộng đã có khoảng 200 người tử thương.
Truyền thông quốc tế và Hoa Kỳ lập tức kết luận rằng quân khủng bố đang mở chiến dịch tung hoành khắp Pakistan.

Sự thật có khi lại trái ngược.
Trước đây, quân khủng bố Thánh chiến tại Pakistan chỉ tấn công lẻ tẻ và vào một số mục tiêu nhất định. Lần này, dường như họ đang mở một cuộc tổng phản công với quy mô lớn bất thường. Lý do là sau vụ nổi loạn tại ngôi đền đỏ ở Islamabad, Tổng thống Pakistan Pervez Musharraf tuyên chiến với Thánh chiến và ra lệnh cho các lực lượng an ninh phải càn quét khủng bố trên toàn lãnh thổ. Cuộc "tổng phản công" của khủng bố vì vậy chỉ là một vụ "Đồng khởi" miễn cưỡng để khỏi bị tiêu diệt.

Đang bị suy yếu bên trong vì quyết định truất bãi Chủ tịch Tối cao Pháp viện Iftikhar Mohammad Chaudhry hồi tháng Ba, Tướng Musharraf không thể tiếp tục dung dưỡng các lực lượng Hồi giáo cực đoan. Mà càng mạnh tay càn quét, ông lại càng dễ huy động được hậu thuẫn của quân đội và cả các lực lượng chính trị hay tôn giáo ôn hoà. Nếu giao tranh lan rộng, ông còn có khả năng ban bố thiết quân luật và đẩy lui lịch bầu cử trong một vụ bầu bán mà ông phải chọn lựa: muốn tái tranh cử chức vụ Tổng thống, ông phải từ bỏ chức vụ lãnh đạo quân đội.

Biến cố ấy liên hệ gì tới Quốc hội Mỹ và Tổng thống Bush"
Sau sáu năm dằng dai trong chiến dịch Afghanistan, Hoa Kỳ và Minh ước NATO thất vọng vì sự thiếu quyết tâm của Chính quyền Musharraf và ảnh hưởng quá sâu đậm của phe Hồi giáo quá khích trong cơ quan tình báo Pakistan. An ninh Pakistan không đủ mạnh tay với quân khủng bố - Taliban, al-Qaeda, hay Thánh chiến, nên xứ này là hậu cứ hậu cần cho các nhóm khủng bố tại Pakistan.
Thế rồi, xung đột bùng nổ giữa Chính quyền Musharraf và quân Thánh chiến, nên các đồng minh của Mỹ trong NATO đang giám trận xem tình hình xoay theo hướng nào. Nếu Chính quyền Islamabad thắng thế, liên quân sẽ có điều kiện dễ dàng hơn để truy lùng mạng lưới al-Qaeda đang ẩn náu tại Pakistan và vùng biên giới của xứ này với Afghanistan.

Nhưng, nói như vậy là quên Bush. Ông không giám trận mà dám làm!
Trong khi tình hình Pakistan sôi sục, hôm Thứ Năm 19, Cố vấn Nội an của Tổng thống Bush, bà Frances Towsend đã có lời phát biểu lạnh mình. Rằng Hoa Kỳ sẵn sàng đưa quân vào Pakistan để truy lùng al-Qaeda. Frances Townsend không là nhân vật ưa nói bậy và khi bà nói là Mỹ không loại bỏ giải pháp nào, kể cả đưa quân vào Pakistan, ta nên tin rằng đó là quan điểm của Chính quyền.
Sợ rằng al-Qaeda hay Islamabad chưa hiểu, Phát ngôn viên chính thức của ông Bush là Tony Snow còn tái xác nhận điều ấy trong cuộc tiếp xúc hàng ngày với báo chí, một cách lịch sự và kín đáo hơn. Vì sao như vậy"

Trong sáu năm liền, Hoa Kỳ phải đu dây theo thế đu dây của Pervez Musharraf.
Tướng Musharraf không là người thiếu quả quyết. Khi bị Thủ tướng Nawaz Sharif cách chức trong lúc đang ở ngoại quốc, ông vẫn lấy máy bay thương mại quay về tiến hành cuộc đảo chánh không đổ máu vào tháng 10 năm 1999 để lên lãnh đạo. Nhưng vụ khủng bố 9-11 tại Mỹ đẩy ông vào thế kẹt. Ông phải đu dây trong cái thế vừa là đồng minh của Hoa Kỳ vừa khéo tương nhượng với các bộ tộc Hồi giáo đang dung dưỡng tàn dư của al-Qaeda và chế độ Taliban. Nặng tay với các lực lượng Hồi giáo cực đoan, ông có thể bị lật đổ. Sáu năm qua, bản thân ông đã bị ám sát hụt ba lần!


Vì vậy, dù biết al-Qaeda và các lãnh tụ Taliban đang từ Afghanistan chạy qua lẩn trốn tại vùng Tây-Bắc của Pakistan, Hoa Kỳ vẫn cố gắng tự chế - và ông Bush bị tấn công ở nhà - khi tránh đưa quân tiến thẳng vào càn quét tàn dư khủng bố trong lãnh thổ Pakistan.

Mỹ mà đổ quân vào Pakistan thì coi như xâm phạm chủ quyền của một xứ độc lập và càng khiến Tướng Musharraf dễ bị dân chúng chống đối, thậm chí bị các tướng lãnh lật đổ. Mà Pakistan lại là một xứ Hồi giáo có võ khí hạch tâm! Đây là lý do Chính quyền Bush đành hậm hực vừa dụ vừa ép Musharraf phải cương quyết hơn.
Tình trạng đu dây đó đã kết thúc cho cả hai người, Tổng thống Bush và Tổng thống Musharraf.

Vụ các "sinh viên" (giáo sĩ Hồi giáo cực đoan) nổi dậy tại ngôi đền đỏ khiến dân chúng Pakistan bất bình và muốn Chính quyền Musharraf phải ra tay càn quét. Xưa nay, quân khủng bố Thánh chiến và cả al-Qaeda chỉ dùng lãnh thổ Pakistan làm hậu cứ tiếp vận, để kết nạp và huấn luyện đặc công, chứ không trực diện đụng trận với an ninh Pakistan. Sau quyết định càn quét của Musharraf, họ có thể bị đánh bung khỏi hậu cứ và bị tiêu diệt.

Nhìn từ Hoa Kỳ, Tổng thống Bush cho rằng đến lúc Musharraf mất quyền, hoặc phải ngả theo một phía, nên các đơn vị Mỹ đã sẵn sàng ở Afghanistan, bên kia biên giới. Nếu cần thì sẽ... ngang nhiên bước qua. Có Musharraf cho phép hay đón mừng thì càng hay, không thì cũng vậy. Việc Tối cao Pháp viện Pakistan vừa ra phán quyết hôm 20 với nội dung bác bỏ quyết định truất bải Chủ tịch Tối cao Pháp viện của Musharraf cho thấy ông này hết thời: có khi làm tổng thống với một thủ tướng và một nội các liên hiệp, hoặc trao trả quyền bính để trở lại quân đội và sẽ bị các tướng lãnh bãi nhiệm luôn, có khi sẽ mất cả hai ấn tín tổng thống và tư lệnh quân đội.
Nói nôm na thì sau chiến dịch Afghanistan hồi tháng 10 năm 2001 và chiến dịch Iraq hồi tháng Ba 2003, Hoa Kỳ có thể mở thêm chiến dịch Pakistan vào tháng Tám 2007!
Biết đâu chừng, những tiết lộ hay công bố kỳ lạ của các cơ quan tình báo Hoa Kỳ về sự lớn mạnh của al-Qaeda nay đã được giải thích!

Al-Qadea như người ta biết trong vụ khủng bố 9-11 tại Mỹ nay chỉ còn tiếng vang từ Ayman al-Zawahiri, thủ lãnh số hai đang trốn chạy tại biên giới Pakistan với Afghanistan.
Còn khủng bố Thánh chiến như người ta vẫn sợ nay đang cố gom quân tại Pakistan và bị an ninh của Musharraf truy diệt trong một trận thư hùng sinh tử.
Al-Qaeda như người ta biết tại Iraq thì đang bị các lực lượng Sunni cô lập và tấn công, một tay đặc công cao cấp ở đây vừa bị bắt, một số cơ sở đầu não đã bị bung. Trong khi Quốc hội Mỹ đòi đàn hặc ông Bush về kết quả của việc dồn quân đánh tới, ở tại chỗ, các đơn vị Mỹ đã đạt thành tích. Đến nỗi, cuối cùng thì Iran đồng ý sẽ nối lại việc đàm phán với Đại sứ Mỹ tại Baghdad. Khi thấy Chính quyền Bush nói đến việc đưa quân vào Paksitan thì các giáo chủ Terhan cũng phải chột dạ, họ gặp người điên hơn mình!
Vì vậy, việc Hoa Kỳ bắn tiếng là có thể đưa quân vào Pakistan là điều... hợp lý.
Dư luận Mỹ có thể ngạc nhiên và không tin là trong khi Tổng thống bị tê liệt, đảng Cộng hoà đã có người tháo chạy và Quốc hội Dân chủ tới tấp đòi rút quân, vì sao Chính quyền Bush lại còn đòi mở rộng chiến trường qua tận Pakistan"
Y như Thủ tướng al-Maliki tại Baghdad hay Tổng thống Musharraf tại Islamabad, ông Bush tại Washington cũng hết chỗ lùi, khi al-Qaeda đang gặp trận Mâu Thân 68 của họ mà Quốc hội Mỹ cứ đòi tháo chạy. Khác với Lyndon B. Johnson đã vò đầu bứt tai và đành buông xuôi khi chuyện thắng bại chỉ nằm trên kẽ tóc, George W. Bush lại lạnh lùng phản công, và nhất định dấn tới!

Cùng dân Texas, Bush có khác Johnson, và một người có thể hiểu được tâm trạng của ông chính là Musharraf. Hiểu được và biết sợ. Đã thế, cùng ngày Chính quyền Bush bắn tiếng sẽ mở chiến dịch Pakistan để diệt al-Qaeda, chỉ số Dow Jones bay qua ngưỡng kỷ lục là 14.000 điểm. Thị trường không run rẩy như chính trường!
Như vậy, các đơn vị Hoa Kỳ có thể sẽ đặt chân vào Pakistan và đụng trận với tàn dư của Taliban, của al-Qaeda, với các nhóm khủng bố Thánh chiến, có khi là các bộ tộc Hồi giáo thân al-Qaeda, thậm chí cả các đơn vị Pakistan ghét Mỹ. Một chuyện nhức tim.

Sau khi đả kích Bush là thiếu cương quyết với Musharraf và không thẳng tay tiêu diệt al-Qaeda, lúc ấy, Quốc hội Hoa Kỳ có đòi rút quân khỏi Pakistan không"
Đòi rồi, sẽ ăn nói làm sao với quốc dân về sự tồn tại của al-Qaeda, khi Mỹ đang chuẩn bị dứt điểm"

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.