Hôm nay,  

Mây Là Nước

26/12/200900:00:00(Xem: 6578)

Mây Là Nước

Vĩnh Hảo
Cuối năm, đất trời vào đông, lạnh lẽo. Ngoài đường ai cũng mặc áo len dày, nhiều lớp; trong nhà, người ta mở máy sưởi. Trời lạnh, nhưng lòng người ấm áp, vì mùa lễ sắp đến, các trường nghỉ học, các công sở, tư sở, hàng quán, chợ búa, thương xá, nô nức bán buôn; ai ai cũng sắp xếp, chuẩn bị những ngày đoàn tụ với gia đình, chia vui với bạn bè, lối xóm. Người người mua sắm, trang trí cây thông trong nhà, ngoài ngõ; đèn giăng ngũ sắc, sáng rực từ lúc mặt trời chưa lặn cho đến bình minh hôm sau, suốt trong nhiều đêm, kể từ Thanksgiving cuối tháng mười một, và sẽ kéo dài đến qua Tết dương lịch. Nhạc giáng sinh reo vui, cảm động, đi đâu cũng nghe.
Đó là ở các nước tây phương theo đạo Thiên Chúa. Nghe nói trong nước Việt Nam, đất nước mà đạo này là thiểu số, cũng tổ chức Giáng sinh tưng bừng, rầm rộ như thế.
Vui, chia sẻ với những người khác đạo trong dịp lễ cuối năm này. Thế nhưng, lòng vẫn nặng trĩu một nỗi buồn. Là vì chúng tôi, những người đồng đạo ở nơi này nơi khác, nhất là ở Việt Nam, đã không thể có được những ngày an bình suốt nhiều năm tháng qua.
Khi tôi viết những dòng này, câu chuyện của những người đồng đạo chúng tôi đã trở thành dĩ vãng, là việc đã rồi, đã an bài. Có nghĩa là giòng sông ấy bị chia cắt thành từng nhánh nhỏ, tản thành mây, thành những giọt nước.
Chúng ta đã từng vững vàng như núi. Chúng ta đã từng đi như một giòng sông. Nhưng nhiều người khác, thế lực khác, đã lay đổ những tảng núi, đã chia chẻ và ngăn cách những giòng sông bằng nhiều cách. Các thế hệ tổ tiên của chúng ta cũng từng trải qua những kinh nghiệm đau thương ấy. Hợp rồi tan. Tan rồi hợp. Rồi lại tan. Rồi lại hợp. Có khi trước bạo lực, một trong những bậc thầy của chúng ta đã dõng dạc tuyên bố: “Tôi nguyện đem xương máu trang trải cho Phật pháp, nếu chết thì như cái chết của chân lý trước bạo lực chứ không phải chết vì bạo lực nầy kém bạo lực khác!”
Sẵn sàng đón nhận cái chết để bảo vệ lý tưởng của mình. Đó là thái độ của núi. Nhưng trong một số trường hợp, nhất là trước những hỏa diệm sơn hừng hực vô minh, bạo động, cái chết không phải là chọn lựa thích đáng. Lửa có thể làm tan chảy những tảng băng, nhưng không hoàn toàn tiêu hủy được nước; có thể cách ngăn được nước để đun cho nước bốc hơi, nhưng không thể cản trở được đường bay của mây trời.


Đã nhiều lần trong quá khứ, cha anh chúng ta phải phân tán, không thể tụ lại nơi một trú xứ, không thể nối kết với nhau như một giòng sông. Bạo lực đã xô đẩy cha anh chúng ta vào tình trạng phân hóa ấy. Nhưng, như những giọt nước bị tán mỏng, cha anh chúng ta đã hóa thân, ứng thân khắp các nơi chốn, từ trong nước ra đến hải ngoại. Tiêu cực mà nói, chúng ta bị chia cách; tích cực mà nói, chúng ta dấn thân hành đạo, đem lý tưởng phổ hiện vào từng nơi chốn khác nhau.
Nếu không cùng đi như một giòng sông, hãy lên đường như mây trắng trên bầu trời vô tận. Người ta có thể ngăn sông, cách núi; nhưng không thể giam nhốt, hủy hoại được mây.
Tôi thật là thất vọng khi bao nhiêu người, bao nhiêu tổ chức, trong và ngoài nước, đã hết lòng lên tiếng can thiệp, ký tên, thỉnh nguyện… nhưng cuối cùng, cũng đành chịu thua trước bạo lực. Nghĩa là phải đành câm lặng để cho núi không thể là núi, sông không thể là sông. Nhưng có thể nào mượn câu nói của Thiền sư Duy Tín để nói với nhau hôm nay không:
“Trước khi học đạo, thấy núi là núi, sông là sông. Đang lúc học đạo, thấy núi không là núi, sông không là sông. Sau khi ngộ đạo, thấy núi vẫn là núi, sông vẫn là sông.”
Khi chúng ta biết chúng ta là núi, chúng ta là núi. Khi chúng ta biết chúng ta là sông, chúng ta là sông. Ý thức thường trực về sự hiện hữu của mình trong tương quan vô tận với thế giới, chúng ta không ngại gì là núi hay không là núi, là sông hay không là sông. Chúng ta từng ngồi được như núi, từng trôi được như sông, thì cũng có thể bay được như mây. Mây có thể tụ, có thể tan, có thể biến dạng, nhưng không mất, vì mây chính là nước. Không có bạo lực nào có thể triệt hủy được thể tính của nước.
Còn lại vài ngày cuối năm, từ nơi xa xôi, tôi viết những dòng này kính gửi đến những anh chị em trẻ tuổi, thế hệ đi sau tôi, nhưng đối với tôi, là những vị thầy, vì quý vị đã làm được những điều tôi không làm được.
Không biết quý vị đã chuẩn bị lên đường xong cả chưa. Có thể nay mai, tôi không còn nghe thấy tên gọi của tảng núi hay giòng sông. Nhưng tôi có thể nhìn thấy quý vị hàng ngày trên vòm trời bao la xanh thẳm.
California, ngày 23 tháng 12 năm 2009
Vĩnh Hảo

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trước hiện trạng kỳ thị, không chỉ bạo hành bằng lời nói, mà còn tấn công hung bạo và bắn giết khiến nhiều người đã thiệt mạng hoặc bị thương tích nặng, các chuyên gia và các nhà hoạt động đã đưa ra một số biện pháp để chống trả vấn nạn này và giúp các thành viên trong cộng đồng tự bảo vệ
Lực lượng “ăn cháo đá bát” rất đông và lan nhanh như bệnh dịch, nhưng chưa bao giờ được công khai cho dân biết để dân bàn, dân kiểm tra. Ngược lại, dân lại là nạn nhân của đám ong nuôi trong tay áo từ bao năm nay. Chúng nằm trong ngành Tuyên giáo, trước đây gọi là Ban Tư tưởng-Văn hóa Trung ương và Ban Khoa giáo Trung ương. Sau lưng đảng còn có đội ngũ chuyên nghề nói thuê và viết mướn gồm Báo cáo viên và Dư luận viên được trả lương bằng tiền thuế của dân.
Vào sáng ngày 1 tháng 5-1975 Trung tá bác sĩ Hoàng Như Tùng, nguyên chỉ huy trưởng Quân Y viện Phan Thanh Giản - Cần Thơ, mặc đồ dân sự, trong tư thế quân phong, đưa tay lên chào vĩnh biêt Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lênh Quân Đoàn IV, Quân Khu IV, Vùng 4 Chiến Thuật, trước sự kinh ngạc của một nhóm sĩ quan cấp cao của bộ đội cộng sản vì sự dũng cảm của bác sĩ Trung Tá Hoàng Như Tùng. Một sĩ quan của bộ đội cộng sản mang quân hàm thiếu tá tiến đến và yêu cầu bác sĩ Hoàng Như Tùng nhận diện Tướng Nguyễn Khoa Nam.
Sách này sẽ được ghi theo hình thức biên niên sử, về các sự kiện từ ngày 8/5/1963 cho tới vài ngày sau cuộc chính biến 1/11/1963, nhìn từ phía chính phủ Hoa Kỳ. Phần lược sử viết theo nhiều tài liệu, trong đó phần chính là dựa vào tài liệu Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ “Foreign Relations of the United States 1961-1963”, một số tài liệu CIA lưu giữ ở Bộ Ngoại Giao, và một phần trong sách “The Pentagon Papers” của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ, ấn bản Gravel Edition (Boston: Beacon Press, 1971). Vì giờ tại Việt Nam và Hoa Kỳ cách biệt nhau, cho nên đôi khi ghi ngày sai biệt nhau một ngày.
Tôi là anh trưởng trong gia đình, với 9 đứa em cả trai lẫn gái, nên trách nhiệm thật khó khăn, từ nhân cách cho đến cuộc sống. Nhưng may mắn tôi gặp được những người anh ngoài xã hội để noi gương và học hỏi. Một trong số những nhân vật hiếm hoi đó, chính là anh Nguyễn Văn Tánh, người mà tôi đã có cơ hội được tiếp tay hỗ trợ và đồng hành cùng anh trong suốt 20 cuộc Diễn Hành Văn Hóa Quốc Tế Liên Hiệp Quốc tại thành phố New York từ 20 năm qua.
Tôi tha phương cầu thực gần như trọn kiếp (và may mắn lạc bước đến những nơi không thiếu bơ thừa sữa cặn) nên bất ngờ nhìn thấy mảnh đời cùng quẫn thì không khỏi chạnh lòng. Nghe tiếng mời chào khẩn thiết, nhìn những khuôn mặt khẩn cầu của đồng bào mình mà muốn ứa nước mắt.
Các định kiến tai hại đối với các phụ nữ Á Châu trong văn hóa đại chúng của Mỹ đã có từ ít nhất thế kỷ thứ 19. Từ đó, các nhà truyền giáo và binh sĩ Mỹ tại Á Châu đã xem phụ nữ mà họ gặp đó như là ngoại lai và dễ tùng phục. Các định kiến này đã ảnh hưởng luật di trú đầu tiên của Hoa Kỳ dựa vào chủng tộc, Đạo Luật 1875 Page Act, ngăn cản các phụ nữ Trung Quốc vào Hoa Kỳ. Giả thuyết chính thức là rằng, ngoại trừ được chứng minh ngược lại, các phụ nữ TQ tìm cách vào Hoa Kỳ đã thiếu tư cách đạo đức và là những gái mại dâm. Trên thực tế, nhiều người là vợ tìm cách đoàn tụ với những ông chồng là những người đã đến Hoa Kỳ trước đó. Khoảng cùng thời gian đó, các phụ nữ TQ tại San Francisco cũng bị làm dê tế thần bởi các viên chức y tế địa phương là những người sợ rằng họ sẽ lây truyền các bịnh lây lan qua đường tình dục cho các đàn ông da trắng, là những người sau đó sẽ lây lan cho các bà vợ của họ. Vào giữa thế kỷ 20, các căn cứ chiến tranh và quân sự của Hoa Kỳ tại TQ, Nhật, Phi Luật Tân,
Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Bá Thanh, Nguyễn Thiện Nhân, Nguyễn Hòa Bình, Nguyễn Xuân Phúc … quả đúng là những kẻ thuộc giới ăn trên ngồi trốc. Họ là những hạt giống đỏ được gieo trồng từ miền Bắc, và đã ươm mầm thành cây. Loại cây này, học giả Phan Khôi gọi một cách lịch sự là cây Cộng Sản. Còn dân gian thì gọi là cây cứt lợn!
Nếu đảng đủ can đảm và ông Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng còn đủ bản lĩnh của một Lãnh đạo gương mẫu trong công tác phòng, chống tham nhũng thì hãy công khai cho dân biết Tổ chức Thanh niên của đảng đã làm được những gì cho dân cho nước trong 90 năm qua. Hay ngót 7 triệu Đoàn viên TNCS chẳng làm được trò trống gì, ngoải vai trò tay sai đã tuyệt đối trung thành với đảng và với chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh?
Adam Smith và Karl Marx cùng được gọi chung là kinh tế cổ điển (classical economy) tức là lao động (labour) tạo ra giá trị (value.) Khác ở chổ Smith quan niệm thị trường tự do giúp mọi người hưởng thụ giá trị lao động còn Karl Marx lên án giá trị lao động của công nhân bị tư bản bóc lột. Vào đầu thế kỷ thứ 20 xuất hiện một cách nhìn mới là giá trị (value) do nơi tiện ích (utility) thay vì từ lao động (labour). Thí dụ một người đang khát uống ly nước đầu thì thật ngon, ly thứ nhì vừa vừa còn ly thứ ba đầy bụng nuốt không vô, tức là giá trị của mỗi ly nước giảm khi nhu cầu tiện ích hạ thấp. Quan điểm này gọi là Giá Trị Biên Tế hay Marginal Value.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.