Hôm nay,  

Võ Đình (1933-2009)

23/06/200900:00:00(Xem: 8206)

VÕ ĐÌNH (1933-2009)

TIỂU SỬ và SỰ NGHIỆP

1933, 14 tháng 11:  Sinh tại Huyện Hương Trà, Thừa Thiên. 
Con của Ông Ngô Đình Thảng và Bà Đỗ thị Hạnh.  Mẹ cưu mang tại
Nghệ An là nơi Thầy làm việc tại Bưu điện.  Thầy gửi Mẹ về Huế để sinh
chốn đế đô. Sau đó Mẹ lại ra Nghệ An.
Tên khai sinh là Ngô Đình Sung, tên gọi ở nhà là Cu Đô. Còn có tên khác là Phó Rèn 
Gia đình mang họ Ngô Đình vì là con nuôi của nhà Ngô Đình (không liên hệ gia đình Ngô Đình Diệm) về sau đổi lại lấy họ nguyên thủy là Võ Đình
1936              
Thầy được đổi về Đà Nẵng.
Mẹ sinh em gái Ngô thị Nga
1943 
Thầy đổi sang làm việc bên Lào.  Mẹ và các con về Huế, cư ngụ tại đường
Mã Khái, thành nội Huế. Học trường tiểu học Thành nội
1945               Vua Bảo Đại thoái vị.
Việt Minh nêu cao trào kháng chiến chống Pháp
1946               Thầy lại đổi về Nghệ An.  Gia đình ra Nghệ An. Ngô Đình Sung đau thương hàn suýt chết.  Thầy nghỉ việc đem gia đình về Huế
1947               Tản cư về quê
1948               Hồi cư.  Học Trung học Khải Định Huế, nay là Quốc học.  Thời đó Khải Định bị Pháp chiếm đóng làm đồn.  Trường học tại khu Chuồng Bò.
1950               Cùng các bạn đồng môn làm báo viết tay Hồn Trẻ, viết truyện ngắn có minh họa, ký tên Thiếu Dũng (theo nhân vật Dũng trong Đôi Bạn của Nhất Linh). 
Bị bắt giam hai lần vì tham gia cao trào Học sinh Kháng chiến, tổ chức biểu tình, ném lựu đan,  truyền đơn … chống Pháp. 
Thầy Mẹ quyết định gửi du học Pháp dưới tên Ngô Đình Thiếu Dũng.
 Chuyến tàu vượt Thái Bình dương nhặt được một sách nhỏ tranh Picasso.
1950-52          Em họ Phan Nhật Nam đến ở với Cậu Mợ để có con trai trong nhà, vì anh lớn theo kháng chiến ra Bắc
1950-53          Trung học Compiègne thuộc quận Oise, 80 cây số Bắc Paris.  Tú tài I. Xuống Lyon Rhône học tiếp.
1954               Hiệp định Genève chia đôi Việt Nam ngang sông Bến Hải.  Đậu Tú tài II tại Paris
1954-55          Ghi danh hoc Luật/Sorbone. 
1956               Văn khoa Sorbone.  Bắt đầu say mê theo dõi sinh hoạt văn học, viếng thăm Viện Bảo tàng, Thư viện, xưởng vẽ…
1957               Không theo lời dặn của Thầy Mẹ muốn con học Y khoa.  Quyết tâm theo đuổi hội họa.  Vào Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật nhưng chỉ say mê những tay tổ Gauguin, Matisse, Modigliani, Picasso, Renoir, Van Gogh… nên theo học Académie de la Grande Chaumière, xưởng vẽ dạy tư nổi tiếng tại Paris.
1958               Gia đình vị hôn thê Alice Webb bạn học tại Paris mời qua Long Island, New York mùa hè.  Kết hôn cùng Alice (gia đình đặt tên Việt là Loan, theo nhân vật Dũng và Loan trong Đôi Bạn của Nhất Linh)
1959               Sinh gái đầu lòng Katherine Phượng Nam tại Paris, tạm ngụ nhà Bà Thầy tại Ville d’Avray, Seine sur Oise và vẫn theo học Mỹ thuật Chaumìère
Gia đình lấy lại họ nguyên thủy Võ Đình.  Tên Mai do Thầy Mẹ chọn để nhớ gốc Mai vàng cổ thụ trước sân nhà. Hoàng Mai. Anh lớn là Võ Đình Hoàng, về sau đổi là Võ Thế Dũng
Từ đây vẽ và viết ký Võ Đình, tên trong thẻ thông hành là Mai Võ Đình
1960              Giã từ Pháp sang Hoa Kỳ, sống tại Maryland.  Cộng tác với Galerie Félix Vercel tai New York.  Di cư sang San Francisco, California ngụ khu xóm nghèo Mission District
1961              Triển lãm cá nhân (one-man show) đầu đời tại Galerie Felix Vercel, New York
1962               Rời California sang Nevada
1963               Triển lãm cá nhân Galerie Felix Vercel, Paris và Galerie Romanet, New York. 
Thiệp Wind Play, United Nations, New York, vẽ con gái Phượng Nam chơi chong chóng.  Phát hành lại 1976
Ly dị Alice Webb
1964               Ngụ tại Kingston, upstate New York.  Gà trống nuôi con.
riển lãm cá nhân Valley House Gallery, Dallas, Texas; Galerie Romanet-Vercel, New York và Palm Beach, Florida
1965               Triển lãm cá nhân Galerie Achard de Souza và Galerie Romanet-Vercel, New York.
Kết hôn với Helen Webb, em ruột Alice (Helen có tên Việt là Huệ Liên, do Thích Nhất Hạnh đặt sau này khi đến thăm Thạch lũng). 
Đoạn tuyệt art gallery cũ.  Di cư đến Matamoras, Pennsylvania. 
1966               Triển lãm cá nhân The Teak Chest Gallery, Montclair
1967               Triển lãm cá nhân Emile Walter Galleries, New York
Sinh gái thứ nhì Hannah Linh Giang tại Port Jervis, New York.
Gặp Thích Nhất Hạnh tại New York
 Thiệp Unicorn, New York
Minh họa Birds, Frogs, and Moonlight, thơ hài cú Nhật, do Sylvia Cassedy và Kunni Suetake dịch ra tiếng Anh
1968               Tết Mậu Thân.  Thảm sát tại Huế
Dịch  và minh họa The Cry of VietNam, thơ Thích Nhất Hạnh, Unicorn Press, Santa Barbara, California
The Crimson Silk Folio, VDM Editions, Pennsylvania
All Year Long , calligraphy, Unicorn Press
Doãn Quốc Sỹ du học Mỹ, từ Tennessee lên thăm. 
1969               Thiệp The Kite, vẽ Phượng Nam thả diều, United Nation, New York
 Triển lãm cá nhân Ligoa Duncan Gallery, New York và Galeries Raymond Duncan, Paris
Dịch và minh họa The Return Path of Thoughts/Nẻo Về Của Ý của Thích Nhất Hạnh, Unicorn Journal #3, Unicorn Press
Unicorn Broadsheet #4, thư pháp, Unicorn Press
1970               Triển lãm cá nhân tại Viện Đại học Vạn Hạnh, Saigon; tại Southern Illinois University, Illinois; tại Undercroft Gallery, Pittsburgh, Pennsylvania; và tại Cornell University, Ithaca
Xuất bản The Jade Song and other Fables of Old VietNam (Chelsea House, New York)
 Xuất bản The Toad is the Emperor’s Uncle, Animal Folktales from VietNam  (Doubleday & Co., New York)
1970-71          Triển lãm cá nhân tại Margo Feiden Gallery, New York
 Dịch và minh họa The Stranded Fish/ Con Cá Mắc Cạn của Doãn Quốc Sỹ, Sáng Tạo xuất bản tại Saigon, Làng Văn Toronto tái bản 1988
1971 và 72      Triển lãm cá nhân tại International House, Denver, Colorado
Triển lãm Vo Dinh, Recent Works, Suzuki Gallery & Margo Feiden Galleries, New York
Aspects of Vietnamese Culture, cùng nhiều tác giả khác, Southern Illinois University, Center for Vietnamese Studies
1972               Di cư về Stonevale (Thạch Lũng), Burkittville, Maryland.  Có biệt danh là Thạch lũng Chân nhân, thư từ hoặc làm thơ có khi ký Thạch Mai
1973               Hiệp định Paris
 Minh họa The Magic Drum, của James Kirkup, Alfred A. Knopf, Inc.
1974               The Woodcuts of Vo Dinh, HB Press, New York
Minh họa First Snow của Helen Coutant, Alfred A. Knopf Inc., New York
Về thăm ViệtNam sau 24 năm xa cách. 
Triển lãm tại Huế và Saigon cùng Đinh Cường
Vẽ tủ thờ nhà Doãn Quốc Sỹ ở Saigon bằng ba màu sở thích đen đỏ vàng
1975               Được giải Christopher Award cuốn First Snow do Helen Coutant viết, Võ
Đình minh họa, Afred A. Knopf Inc., New York
Minh họa The Raft is not the Shore, Conversations toward a Budhist/Christian Awareness, đối thoai giữa Thích Nhất Hạnh và Daniel Berrigan, S.J., Beacon Press, Boston, Massachusetts
1975, 30 tháng 4:  Miền Nam rơi vào tay Cộng sản Bắc Việt. 
1976               Qua Paris cùng Phượng Nam, nhân đám tang bạn Trương Bính
Dịch Zen Poems của Thích Nhất Hạnh, Unicorn Press, North Carolina
1977               Viết thư pháp The Way of Everyday Life, calligraphy for the Shobogenzo Genjokoan, Zen Center of Los Angeles
1978               Minh họa One Thousand Pails of Water của Ronald Roy,  Alfred A. Knopf, New York.
1977-78          Cộng tác Văn học Nghệ thuật của Võ Phiến.
 1980               Xuất bản Xứ Sấm Sét, Lá Bối, Paris.
1981               Dịch sang Việt và Anh ngữ, minh họa và trình bày thư pháp 18 bài thơ thiền xưa từ chữ Hán Hương Thiền/ Fragrance of Zen, Center of Buddhist Culture, Los Angeles.
Xuất bản Tuyết Đầu Mùa, dịch First Snow của Helen Coutant, Lá Bối Paris.
1982               Minh họa The Brocaded Slipper của  Lynette Dyer Vuong, Addison-Wesley, Massachusetts.
Minh họa The Land I Lost của Lynette Dyer Duong, Harper & Row, New York
Minh họa The Happy Funeral của Eve Bunting, Harper & Row Publishers.
1983               Minh họa A Sudden Flash of Lightning, Sư cô Gesshin Myoko Midwer và Thượng tọa Thích Mãn Giác, International Zen Institute of America, Los Angeles
Minh họa Angel Child, Dragon Child của Michelle Maria Surat, Carnival Press, Minneapolis.
Xuất bản A Flower for You, cùng dịch với Helen Coutant, Nam Tuyền Temple, Virginia


1984     .          Litterature Program Fellowship từ National Endowment for the Art, Washington, D.C.
Minh họa The Gift của  Helen Coutant, Alfred A. Knopf, New York.
1985               Mẹ qua đời tại Việt Nam.
Ly dị Helen. 
Qua Pháp mấy tháng tại Làng Hồng do Thầy Nhất Hạnh sáng lập.  Vẽ thiệp Làng Hồng.
Dịch Landscape and Exile cùng nhiều dịch giả khác, Rowan Tree Press, Boston, Massachusetts.
Mở lớp dạy vẽ cho một nhóm nghệ sĩ, trong số có Calvin Edward Ramsburg, đệ tử ruột, sau này thành công và lại mở lớp dạy vẽ, hướng dẫn đặc biệt những người khuyết tật.
1986               Thầy qua đời tại Việt Nam
Dọn nhà  qua Brunswick, Maryland.  Ở một mình.
1987               Triển lãm tại Đại học George Mason, Virginia, đánh dấu 30 năm cầm cọ
Ra mắt Xứ Sấm Sét, Văn nghệ in lại với một số bài viết sau 1980.
1988               Minh họa The Miracle of Mindfulness của Thích Nhất Hạnh, Beacon
Press, Boston, Massachusetts.
1989               Xuất bản Yoga Căn bản, Văn nghệ, California.
Dịch và minh họa The Moon Bamboo của Thích Nhất Hạnh, Parallax
Press, Berkeley, California.
Dịch The Pine Gate của Thích Nhất Hạnh, White Pine Press, New York.
Minh họa và dịch 7 trong 16 truyện/thơ War and Exile của nhiều tác giả,
Văn Bút Miền Đông, Vietnamese PEN, East Coast, USA.
Minh họa Trường ca Lời Mẹ Ru thơ Trương Anh Thụy, Nguyễn Ngọc Bích dich tiếng Anh, Cành Nam Publishers, Virginia.
1990               Xuất bản Đóa Sen và Nụ Cười, Văn Nghệ, California.
1991               Xuất bản Sao Có Tiếng Sóng, Văn Nghệ, California.
Minh họa Tết, The New Year của  Trần thị Kim Lan, Modern Curiculum
Press, Ohio.
1992               Dịch Literature of South Vietnam, 1954-1975, Vietnamese Language &
Culture  Publications, Melbourne, Australia.
Triển lãm tại Montréal, Canada, đánh dấu 35 năm nghệ thuật Võ Đình
Gửi tặng tranh Cánh Hồng  mừng nhân dịp Sắc Lụa của Trần thị LaiHồng triển lãm Áo Dài Việt Nam lần đầu tiên tại Mỹ, Wing Luke Museum,
Seattle, Washington. 
1993               Về thăm Việt Nam.
Minh họa Sky Legends of VietNam của  Lynette Dyer Duong,  Harper
Collins, New York.
1994               Kết hôn cùng Trần thị LaiHồng.
1995               Mừng Võ Phiến “thất thập cổ lai hy” Họp bạn Võ đường Tây Sơn Virginia.
Dịch và minh họa The Stone Boy của Thích Nhất Hạnh, Parallax Press,
Berkeley, California.
1996               Cùng LaiHồng về thăm Việt Nam. 
Di cư về the Sunshine State, Florida, Hoa bang. Tạm trú trại Cây Nhiệt đới của Hoàng Ngọc Hòa.
 1997               Dọn vào nhà mới 12593  82nd Street North, West Palm Beach, FL 33412
Vẽ Chim về tổ trên kính cửa vào nhà, và trồng một Hoàng Mai sân trước Nhà nhỏ đất rộng trồng cây trái hoa rau Việt Nam
Xuất bản Lầu Xép, Văn Nghệ, California
Dịch và minh họa The Pine Gate của Thích Nhất Hạnh, White Pine Press,
New York
1998               Minh họa The Miracle of Mindfulness, a Manual on Meditation của
Thích Nhất Hạnh, Beacon Press, Boston, Massachusetts
1999               Thăm Paris và Amsterdam cùng LaiHồng
2000               Xuất bản Rừng Mắm Văn Nghệ, Văn Nghệ, California
Triển lãm tại Pháp cùng Phan Nguyên, kỷ niệm 50 năm trước đặt chân tới Paris
2002               Xuất bản Huyệt Tuyết, Văn Nghệ, California.
Nguyễn Hưng Quốc từ Úc liên lạc emails về “thư từ” Võ Phiến
2003               Mừng Võ Đình “thất thập cổ lai hi!” 
Cùng LaiHồng về thăm Việt nam.
LH đi HàNội một mình, mang về một cồng cao nguyên và trống đồng Ngọc Lũ sao đúc lại.
Minh họa The Hemit and the Well của Thích Nhất Hạnh, Parallax Press,
Berkeley, California.
2004               Xuất bản Mây Chó do Tổ hợp Xuất bản Miền Đông.  Ra mắt sách tại
Đại học George Mason, Virginia.
2005               Mừng LaiHồng  “bảy chục cái Xuân!”
Xuất bản Một Cành Mai gồm 30 bài thơ Thiền và Kệ của các Thiền sư  Việt Nam, Võ Đình sưu tập, dịch ra tiếng Việt và minh họa, dịch ra tiếng Anh cùng  Công Huyền Tôn nữ Nha Trang,  Hạnh Cơ viết chữ Hán, An
Tiêm Paris/San Jose, California.
Minh họa The Coconut Monk của Thích Nhất Hạnh, Plum Blossom
Books, Parallax Press, Berkeley, California.
Mổ mắt cườm cataracts.  Đi đứng khó khăn. Bắt đầu chống gậy. 
2007, đầu tháng 7, họp mặt mấy o Gió-o tại nhà VĐ/LH, Hoa bang Minh họa Đồng dao và Trò chơi Trẻ con, biên khảo của Trần thị LaiHồng,
 đăng www.gio-o.com/
Minh họa Nhi đồng trong Ca dao, biên khảo của Trần thị LaiHồng, đăng 
www.gio-o.com/
2008              Xuất bản Trời Đất, gồm 10 truyện và 10 chuyện, Tổ hợp Xuất bản Miền
Đông Hoa Kỳ .  Ra mắt sách tại tư gia Hồ Thùy, Oakton, Virginia, có phần phụ diễn Y Phục Phụ nữ Việt Nam Xưa và Nay của Trần thị LaiHồng, kỷ niệm 15 năm phối ngẫu  Châu về Hiệp Phố.
2008              Tháng 10, đi đứng khó khăn, ngã tại phòng mạch Bác sĩ Tâm lý, phải vào
 Bệnh viện cấp cứu, sau đó nhập Trung tâm Phục hồi  ManorCare Health Services Center .
2009, tháng 2,  Bác sĩ chuyên khoa thần kinh hệ khám phá bệnh Progressive Supranuclear Palsy/ suy thoái não, một bệnh rất hiếm, tỷ lệ 1/100,000.
2009, 22 tháng 5, Ni sư Anh Hương đại diện Thích Nhất Hạnh từ Virginia về thăm và
làm lễ Cầu An.
2009, 28 tháng 5, rời ManorCare Center về nhà theo ước nguyện, có Hồng Phúc con gái họa sĩ Dương Phước Luyến giúp đón đệ tử ruột Eddie từ Maryland về thăm. 
2009, 31 tháng 5, 6:20 chiều, qua đời sau bốn ngày tại nhà, có đông đủ vợ, con, và một số thân hữu.
2009, 6 tháng 6, Tang lễ. Hỏa thiêu.  Ngoài vợ, các con và em họ Phan Nhật Nam, có
đệ tử ruột Calvin Edward Ramsburg từ Maryland về chịu tang. 
Một nửa TRO TÀN đem về Việt Nam nơi sinh trưởng, bên kia bờ Thái Bình dương.  Một nửa rải Đại Tây dương nơi từng sinh sống, thành đạt trong văn học nghệ thuật
ẤN PHẨM VÕ ĐÌNH
SÁNG TÁC
Thiệp Wind Play, United Nation, New York, 1963- 1976
Thiệp The Kite, United Nations, New York, 1969
The Crimson Silk Folio, VDM Editions, Pennsylvania, 1968
The Jade Song, Chelsea House, New York, 1970
The Toad is the Emperor’s Uncle, Doubleday, New York, 1970
Aspect  of Vietnamese Culture (with other authors), Southern Illinois University, Center for Vietnamese Studies, 1972
Vo Dinh, Recent Works, Suzuki Gallery & Margo Feiden Galleries, New York, 1972
The Woodcuts of Vo Dinh, HB Press. New York, 1974
Xứ Sấm Sét, Lá Bối Paris 1980; Văn nghệ California, 1987
Yoga Căn bản, Văn Nghệ, California, 1989
Đóa Sen và Nụ Cười, Văn Nghệ, California, 1990
Sao Có Tiếng Sóng, Văn Nghệ, California, 1991
Lầu Xép, Văn Nghệ, California, 1997
Rừng Mắm Văn Nghệ, Văn Nghệ, California, 2000
Huyệt Tuyết, Văn Nghệ, California, 2002
Mây Chó, Tổ hợp Xuất bản Miền Đông Hoa Kỳ, Virginia, 2004
Tuyển tập, Văn Mới, California, 2007
Trời Đất, Tổ hợp Xuất bản Miền Đông Hoa Kỳ, 2008
Tuyển tập II, dự định xuất bản 2010
DỊCH THUẬT
The Return Path of Thoughts, Unicorn Journal #3, 1969
The Stranged Fish, Sáng Tạo, Saigon, 1971; Làng Văn, Toronto, 1988
Zen Poems of Thich Nhat Hanh, Unicorn Press, North Carolina, 1976
Hương Thiền, Trung tâm Văn hóa Phật giáo, Los Angeles, 1981
Tuyết Đầu Mùa, Lá Bối, Paris, 1981
A Flower for You, cùng Helen Coutant Webb, Nam Tuyền Temple, Virginia, 1983
Landscape and Exile, cùng nhiều dịch giả khác, Rowan Tree Press, Boston, Massachusetts, 1985
The Moon Bamboo, Thích Nhất Hạnh, Parallax Press, Berkeley, California, 1989
The Pine Gate, Thích Nhất Hạnh, White Pine  Press, New York, 1989
War and Exile, cùng nhiều dịch giả khác, Vietnamese PEN, East Coast, USA, 1989
Literature of South Vietnam, 1954-1975, Vietnamese Language and Culture Publications, Melbourne, Australia, 1992
The Stone Boy, Thích Nhất Hạnh, Parallax Press, Berkeley, California, 1995
A Branch of Plum Blossom, An Tiêm Paris, California, 2005
 MINH HỌA
Birds, Frogs, and Moonlight, Doubleday, New York, 1967
The Cry of Vietnam, Unicorn Press, Santa Barbara, California, 1968
All Year Long, calligraphy, Unicorn Press, 1968
The Magic Drum, Alfred A. Knopf, New York, 1973
First Snow, Alfred A. Knopf, New York, 1974
The Raft is not the Shore, Beacon Press, Boston, Massachusetts, 1975
The Way of Everyday Life, calligraphy for the Shobogenzo Genjokoan, Zen Center of Los Angeles, California, 1978
One Thousand Pails of Water, Alfred A, Knopf, New Yprk, 1978
Fragrance of Zen, Center for Buddhist Culture, Los Angeles, California, 1981
The Brocaded Slipper, Addison-Wesley, Massachusetts, 1982
The Land I Lost, Harper & Row, New York, 1982
The Happy Funeral, Harper & Row, New York, 1982
A Flash of Lightning, International Zen Institute of America, Los Angeles, California
1983
Angel Child, Dragon Child, Carnival Press, Minneapolis, Minnesota, 1983
The Gift, Alfred A. Knopf, New York, 1984
The Miracle of Mindfulness, Beacon Press, Boston, Massachusetts, 1988
Trường ca Lời Mẹ Ru, Tủ sách Cành Nam, Virginia, 1989
Tết, The New Year, The Children’s Museum, Boston, Massachusetts, 1991
Sky Legends of Vietnam, Harper Collins, New York, 1993
The Hermit and the Well, Parallax Press, Berkeley, California, 2003
Một Cành Mai, An Tiêm Paris, California, 2005
The Coconut Monk, Parallax Press, Berkeley, California, 2005
Nhi đồng trong Ca dao, biên khảo của Trần thị LaiHồng
Đồng dao và Trò chơi Trẻ con, biên khảo của Trần thị LaiHồng
Trần thị LaiHồng soạn ghi.
Hoa bang, 14 tháng 6, 2009, tuần chay thứ nhì.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Từng là một trung tâm thương mại sầm uất và biểu tượng cho niềm hy vọng đang dâng cao về tương lai dân chủ trong khu vực, Hồng Kông hiện đang đối mặt với các biện pháp kiểm soát ngày càng siết chặt của chính quyền Bắc Kinh. Từ năm 2019 cho đến nay, khoảng hơn 200.000 người đã ra đi để cố thoát khỏi bầu không khí chính trị ngày càng ngột ngạt. Với việc áp dụng Luật An ninh Quốc gia, quyền tự trị của Hồng Kông từng được cam kết trong mô hình “một quốc gia, hai chế độ” đã bị gần như hoàn toàn xoá bỏ. Xu hướng toàn trị của chính quyền Trung Quốc không những ảnh hưởng trực tiếp đến số phận nghiệt ngã của Hồng Kông mà còn gián tiếp đến trào lưu dân chủ hoá của Việt Nam.
Ở New York, khoảng 2 triệu cử tri đã đi bỏ phiếu cho cuộc bầu cử thị trưởng lần này, cao nhất từ năm 1969, theo dữ liệu của NBC. Tất cả người dân hiểu được tầm quan trọng của lá phiếu lần này. Mười tháng qua, có vẻ họ hiểu được mức an toàn cuộc sống của họ ra sao, và sức mạnh của nền dân chủ hơn 200 năm của Hoa Kỳ đang lâm nguy như thế nào.
Mamdani không bán mộng. Anh bán khả thi. Và cử tri, sau nhiều lần bị dọa nạt, có vẻ đã chọn đúng thứ cần mua. Hy vọng, khi ấy, không phải lời hứa. Nó là hóa đơn thanh toán mỗi cuối tháng, nhẹ hơn một chút — và là bằng chứng rằng lý trí vẫn chưa bị bôi xóa.
Hiến pháp là văn bản pháp lý tối cao quy định các nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước, xác lập thẩm quyền của các cơ quan công quyền, đồng thời quy định các chế độ kinh tế, văn hóa, xã hội và những quyền cơ bản của công dân. Tất cả các cơ quan nhà nước và công dân đều có nghĩa vụ tuân thủ Hiến pháp...
Trong bài phát biểu tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ở New York hôm 23 tháng 9 năm 2025, Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump đã nói rằng, “Biến đổi khí hậu, bất kể điều gì xảy ra, các bạn đã bị cuốn hút vào đó rồi. Không còn việc hâm nóng toàn cầu nữa, không còn chuyện toàn cầu lạnh cóng nữa. Tất cả những tiên đoán này được thực hiện bởi Liên Hiệp Quốc và nhiều tổ chức khác, thường là những lý do tồi và đều sai lầm. Chúng được tiên đoán bởi những kẻ ngu mà dĩ nhiên là số phận của đất nước họ và nếu tiếp tục thì những quốc gia đó không có cơ hội để thành công. Nếu các bạn không tránh xa khỏi trò lừa đảo xanh này thì đất nước của các bạn sẽ thất bại.” Đó là lời chứng rõ ràng được đưa ra trước cộng đồng quốc tế về quan điểm và hành động của chính phủ Trump chống lại các giá trị khoa học mà nhân loại đã, đang, và sẽ tiếp tục giữ gìn và thực hiện để làm cho cuộc sống ngày càng văn minh tiến bộ và hạnh phúc hơn.
Năm xưa, khi Benjamin Franklin rời khỏi Hội nghị Lập hiến năm 1787, một người phụ nữ hỏi ông: “Ngài Franklin, chúng ta có được chính thể gì, một nền quân chủ hay một nền cộng hòa?” Ông đáp: “Một nền cộng hòa, nếu các người còn giữ được nó.” Benjamin Franklin muốn nói, một nền cộng hòa, tức chính quyền của nhân dân, dựa trên luật pháp và trách nhiệm của người dân. Nền cộng hoà không tự bền vững, nó chỉ tồn tại nếu người dân có đủ phẩm hạnh, lý trí. Dân chủ không phải một thành quả, mà là thử thách liên tục. Câu nói ngắn gọn, đanh thép năm xưa của Franklin nay linh nghiệm, dưới thời Donald Trump.
Sáng nay, một post trên mạng xã hội của một người bạn làm tôi khựng lại: “Nếu không thích nước Mỹ, thì cuốn gói cút đi.” Câu đó khiến tôi nhớ về một buổi chiều hơn mười năm trước. Hôm ấy, nhóm bạn cũ ngồi quây quần, câu chuyện xoay về ký ức: Sài Gòn mất. Cha bị bắt. Mẹ ra tù. Chị em bị đuổi học, đuổi nhà. Và những chuyến tàu vượt biển không biết sống chết ra sao. Giữa lúc không khí chùng xuống, một người bạn mới quen buông giọng tỉnh bơ: “Các anh chị ra đi là vì không yêu tổ quốc. Không ai ép buộc dí súng bắt các anh chị xuống tàu cả.” Cả phòng sững sờ. Ở đây toàn người miền Nam, chỉ có chị ta là “ngoài ấy.” Vậy mà chị không hề nao núng. Ai đó nói chị “gan dạ.” Có người chua chát: “Hèn gì miền Nam mình thua.”
Trong cái se lạnh của trời Tháng Mười vào Thu, khi màu lá trên khắp nước Mỹ chuyển sang gam màu đỏ rực, vàng óng, thì một cơn bão đang âm ỉ sôi sục, len lỏi dưới bề mặt của cuộc sống người Mỹ. Gió càng thổi mạnh, cơn bão ấy sẽ càng nhanh chóng bùng nổ. Vỏn vẹn trong một tháng, nước Mỹ chứng kiến ba sự kiện chấn động, nức lòng những người đang dõi theo sự mong manh của nền Dân Chủ. Mỗi sự kiện diễn ra trong một đấu trường riêng của nó, nhưng đều dệt nên từ cùng một sợi chỉ của sự phản kháng kiên cường: bắt nguồn từ sự phỉ báng tính chính trực của quân đội; tước toạt thành trì độc lập, tự do của báo chí – ngôn luận; và những cú đánh tới tấp vào sức chịu đựng của người dân.
Hiểu một cách đơn giản, văn hoá là một khái niệm tổng quát để chỉ sự chung sống của tất cả mọi người trong cùng xã hội, bao gồm ngôn ngữ, phong tục tập quán, tôn giáo và luật pháp. Do đó, luật pháp là một thành tố trong toàn bộ các hoạt động văn hoá và có ảnh hưởng đến tiến trình phát triển xã hội, một vấn đề hiển nhiên...
Bất kỳ là ai, trẻ cũng như già, nữ cũng như nam, thật là tò mò, nếu chúng ta có thể biết được tương lai gần hoặc xa của mình, của người khác. Biết được tương lai là chuyện thú vị, hoặc căng thẳng, hoặc sôi nổi, hoặc sợ hãi. Ví dụ như bạn tiên đoán được ba tháng nữa sẽ gặp tai nạn hoặc cuối năm nay sẽ bị vợ ly dị. Nhưng có thể nào tiên đoán như vậy không? Làm gì có, chỉ là chuyện giả tưởng, chuyện phim ảnh và tiểu thuyết. Chuyện mấy bà phù thủy nhìn vào thau nước hoặc quả bóng kính trong thấy được chuyện mai sau, việc mấy ông thầy bói bấm tay nhâm độn, lật bài bói toán, v… v… chỉ thỏa mãn giấc mơ và tưởng tượng. Trong thực tế, chuyện đang xảy ra còn chưa giải quyết xong, nói chi chuyện ngày mai. Không đúng, nếu biết chuyện ngày mai thì chuyện hôm nay vô cùng dễ giải quyết. Ví dụ, “nếu biết rằng em sẽ lấy chồng, anh về lấy vợ thế là xong. Vợ anh không đẹp bằng em lắm, nhưng lấy cho anh đỡ lạnh lòng.” (Thơ vô danh). Thay vì cứ đeo đuổi hai ba năm sau, kéo dài buồn bã, đau khổ, để rồi “Lòn


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.