Hôm nay,  

Tự Do Ngôn Luận?

29/07/200800:00:00(Xem: 10232)
...Nhưng khó chấp nhận được chính là những lời tự quảng bá là ‘trung thực và công bằng’...

Nước Cờ Hoa có thể chế chính trị tự do dân chủ nhất thế giới, đó là điều ít ai chối cãi được dù ưa hay ghét “đế quốc” Mỹ. Tự do có nghĩa là ai muốn nói gì thì nói, nói sai nói đúng, nói phải nói quấy, nói khôn nói dại, nói trắng nói đen, nói thật nói phét,… tất cả đều được hết. 

Tại Mỹ, các đài và báo, như hầu hết ký giả viết tin, đọc tin và bình luận, đều lớn tiếng tự quảng bá là đáng tin cậy nhất, trình bày tin tức trung thực nhất, và bình luận công bằng nhất. Luận điệu này có lẽ là điều láo khoét nhất mà chúng ta có thể nghe được.

Bất cứ một ký giả viết tin, hay đọc tin, hay một bình luận gia nào cũng vậy, cũng chỉ là những con người bằng xương bằng thịt, với ý nghĩ, cảm xúc, yêu thương, giận ghét, sở thích… của mỗi người. Do đó, từng lời nói, bài viết hay cách họ lọc tin để suy diễn cũng chỉ phản ánh suy tư rất chủ quan của họ. Điều này là dễ hiểu và ai cũng có thể chấp nhận được. Nhưng khó chấp nhận được chính là những lời tự quảng bá là “trung thực và công bằng”. Không một ký giả hay nhà bình luận nào, chuyên nghiệp hay không chuyên nghiệp  -kể cả kẻ viết bài này- có thể đứng trong một vị thế trung dung tuyệt đối được. Sự thật đơn giản vậy thôi.

Nhìn vào hệ thống truyền thông Mỹ, người ta thấy rõ là một số đài truyền hình và báo hoàn toàn khống chế truyền thông Mỹ. Về truyền hình thì đó là các đài lớn như ABC, CBS, NBC và CNN, trong khi về báo thì có các nhật báo New York Times, Washington Post, USA Today, Los Angeles Times, San Francisco Chronicles, Chicago Tribune, hay các tuần báo Time và Newsweek. Tất cả những đài truyền hình và báo nặng ký ấy được gọi chung là MSM, chữ viết tắt của Mainstream Media, nghĩa là truyền thông của dòng chính lưu.

MSM từ trước đến giờ vẫn là tiếng nói của giới cấp tiến Mỹ, có lập trường chung rất cấp tiến (liberal) và thiên tả, thường là thân cận với phe cấp tiến trong đảng Dân Chủ.

Sự thiên vị của MSM không là chuyện mới lạ mà thật sự đã có từ mấy thập niên rồi.

Có lẽ nhiều người chưa quên được tờ New York Times là báo đã công bố hồ sơ tối mật Ngũ Giác Đài (The Pentagon Papers) do một nhân viên Bộ Quốc Phòng có tư tưởng phản chiến ăn cắp và cung cấp cho và gây tai hại nặng cho cuộc chiến chống Cộng của chúng ta dưới thời TT Nixon. Chúng ta cũng còn nhớ Washington Post là tờ báo đã khui vụ Watergate để đánh gục Nixon. Đây cũng là tờ báo đã khui vụ cựu đại tá Oliver North cung cấp vũ khí cho các lực lượng tự do Nicaragua chống lại nhà độc tài cộng sản Ortega khiến TT Reagan bối rối không ít. 

Gần đây hơn, tờ New York Times cũng là tờ báo đã công bố chi tiết về những vụ chính quyền Mỹ theo dõi các đường giây chuyển ngân lậu để tài trợ khủng bố trên thế giới, và gây khó khăn cho chính quyền Bush đang truy lùng các nhóm khủng bố liên hệ đến Al Qaeda.

Hiển nhiên, bảo vệ lập trường thiên tả cấp tiến của mình, cũng như nhu cầu đăng tin sốt dẻo để bán báo là chuyện quan trọng hơn xa các vấn đề bảo vệ an ninh quốc gia đối với MSM.

Cuộc tranh cử tổng thống Mỹ, kể cả các cuộc tranh cử sơ bộ, đã kéo dài gần hai năm nay. Chúng ta đã có dịp nghe đài, xem truyền hình, và đọc báo rất nhiều. Do đó, cũng đã nhìn thấy rõ khía cạnh thiên vị của truyền thông Mỹ.

Ví dụ điển hình nhất là tờ The New York Times (NYT).

Đầu mùa hè năm 2007, khi cuộc chạy đua vào Tòa Bạch Ốc bắt đầu, tờ NYT bắt buộc phải có ý kiến về các ứng viên hai phe Dân Chủ và Cộng Hòa đang tranh cử. NYT lên tiếng hậu thuẫn bà Hillary Clinton bên Dân Chủ - dĩ nhiên vì lúc đó chưa ai biết Obama là ai - và ông John McCain bên Cộng Hòa. NYT ủng hộ McCain một phần vì ông này trước đây tranh cử chống thống đốc Bush của Texas trong cuộc tranh cử năm 2000 và sau đó đã nhiều lần lên tiếng phát biểu khác ý với Chính quyền Bush về nhiều vấn đề quan trọng, như thuế, chiến thuật tại Iraq, cách cư xử với tù nhân khủng bố, v.v...

Nhưng phần khác vì McCain lúc đó đang là một “ngôi sao” hết sức lu mờ, không ai nghĩ ông có chút hy vọng nào hết chống lại cựu thị trưởng New York Rudolph Giuliani hay cựu thống đốc Massachussetts Mitt Romney.

Việc hậu thuẫn một người nổi tiếng chống Bush mà lại có vẻ vô vọng đắc cử có thể được hiểu như kiểu khều giò lái đảng Cộng Hòa và TT Bush không hơn không kém.

Đến tháng Hai năm 2008, khi ông McCain đã nổi bật như người sẽ đắc thắng cuộc tranh cử sơ bộ bên Cộng Hòa thì NYT bèn thân tặng ông này một loạt bài tố cáo không chứng cớ răng ông này cách đây cả chục năm đã gian díu với một bà là chuyên viên vận động hành lang - lobbyist. Nhiều người thắc mắc không hiểu tại sao NYT lại lên tiếng hậu thuẫn ông McCain nếu đã biết về vụ lem nhem này. Có thể NYT đã cố tình lên tiếng hậu thuẫn và ca ngợi ông McCain là ứng viên Cộng Hòa sáng giá nhất, để rồi sau đó có dịp chứng minh được với thiên hạ người khá nhất của Cộng Hòa cũng chỉ là thứ lem nhem vớ vẩn thôi!

Không may cho NYT là loạt bài này bị phản ứng ngược. Tờ báo không đưa ra được bằng chứng nào mà chỉ dựa vào lời kể của một người giấu tên, nên bài báo bị coi là vô giá trị và có tính cách bôi bác. Ông McCain thoát hiểm.

Trung tuần tháng Bẩy vừa qua, ông McCain lại bị NYT tặng cho một món quà nữa.

Hồi tháng Sáu, ông Obama lên tiếng tuyên bố “có thể xét lại” lịch trình rút quân khỏi Iraq của ông. Ông liền bị phe Cộng Hòa tố ngay là lập trường chao đảo, chuyển hướng để lấy phiếu mấy ông bảo thủ và độc lập không chấp nhận rút quân cấp tốc bất kể hậu quả của Obama. Để đỡ đòn, Obama viết một bài tràng giang đại hải phân trần và giải thích về lập trường của ông trong việc rút quân khỏi Iraq, đồng thời đả kích mạnh mẽ lập trường của McCain và Bush. Bài viết của Obama được NYT đăng nguyên văn trên mục bình luận của báo này.

Một tuần lễ sau, ông McCain viết một bài để trả lời những chỉ trích của Obama và chất vấn lại lập trường của Obama.

NYT từ chối không cho đăng bài trả lời của ông McCain. Chủ bút phụ trách mục bình luận góp ý (Op-ed) của NYT giải thích là bài của Obama đưa ra lập luận mới lạ (new), trong khi bài của McCain có nhiều thiếu sót, nhiều câu hỏi không được trả lời, đồng thời lại chỉ trích Obama hơi nhiều. Ông chủ bút xác nhận NYT sẽ vui vẻ cứu xét việc đăng bài của McCain nếu ông này chịu viết lại, rập khuôn theo bài của ông Obama (nguyên văn: “mirrors Senator Obama’s piece”). Cũng cần biết ông chủ bút này trước đây là phụ tá đặc biệt của TT Dân Chủ Bill Clinton!

Sự kiện NYT đăng bài của Obama rồi không cho đăng bài trả lời của McCain, tự nó đã là hơi quá thiên vị. Bây giờ NYT lại còn yêu sách đòi McCain phải viết “rập khuôn” theo Obama thì quả là chuyện lạ. Không khác gì trường hợp các bài viết của các ký giả được các chủ biên “hướng dẫn” cách viết trong chế độ báo chí của các nước cộng sản. Nhưng đây lại là chyện đang xẩy ra trên nước Mỹ, nơi được gọi là thành trì của tự do ngôn luận, với một tờ báo được coi là lớn nhất Mỹ.

Nếu ai không tin NYT là báo cấp tiến thiên vị Obama thì chỉ cần nhìn vào sự kiện trên để hiểu rõ vấn đề hơn.

Nhưng không phải chỉ có NYT là cơ quan truyền thông duy nhất đang cố gắng rao giảng "đạo Obama".

Trước đây, bà Hillary tuy cũng là phe Dân Chủ, nhưng vì ít cấp tiến hơn Obama và thuộc loại đồ cổ, không hấp dẫn gì lắm, nên các báo cấp tiến đã ra công kéo bà xuống để tâng bốc Đấng Tiên Tri mới Obama. Bà Hillary gân cổ phản đối cũng vô hiệu.

Ngay sau khi bà Hillary đại thắng tại Texas và Ohio, có hy vọng lật ngược thế cờ, thắng Obama trong những cuộc bầu chót của cuộc tranh cử sơ bộ bên Dân Chủ, thì cả hai tuần báo Time và Newsweek đều cho ngay hình Obama lên trang bìa với bài viết kèm theo tuyên bố Obama đã đắc cử đại diện cho đảng Dân Chủ, hoá giải ngay dư âm của hai cuộc chiến thắng của bà Hillary. Dĩ nhiên trong các cuộc bầu sơ bộ sau đó, các cử tri của Obama phấn khởi, đi bầu ào ào, trong khi cử tri của Hillary nản chí nằm nhà không đi bầu nữa, hay đi bầu cho Obama vậy. Khiến cho Obama thắng thật, đúng như hai tuần báo đã loan tin từ trước.

Sau khi Obama hạ được bà Hillary thì ông bắt đầu đổi chiến lược. Bắt đầu trở giọng ôn hòa, bớt quá khích cấp tiến hơn để thu hút phiếu của các cử tri độc lập và Cộng Hòa ôn hòa. Ông thay đổi lập trường trên một loạt vấn đề, từ việc nuốt lời hứa nhận tiền công quỹ để tranh cử, đến việc chấp nhận sở hữu súng mà mình vẫn chống đối từ lâu, việc bỏ phiếu miễn tố các công ty điện thoại trước đây đã giúp Bush nghe lén những cuộc đối thoại của các nghi can khủng bố, xét lại việc rút quân tại Iraq, … Tất cả những thay đổi lập trường lộ liễu của Obama nếu không được giới truyền thông cấp tiến nức nở ca ngợi như hành động khôn ngoan, thì cũng được chấp nhận như có tính thực tế.

Dù còn hơn ba tháng nữa mới tới ngày bàu cử và các cuộc thăm dò dư luận đều cho thấy một tình trạng ngang ngửa giữa hai ứng viên, nhưng tuần báo Time trong số ra trung tuần tháng Bẩy đã khẳng định McCain hoàn toàn vô vọng rồi, chỉ vì theo Time, Obama chính là sự thay đổi mà tất cả mọi người đang mong đợi. Nói cách khác, Time chỉ lập lại một khẩu hiệu quen thuộc của Obama thôi, coi như lập luận này đã trở thành sự thật vậy.

Time ra số đặc biệt với 24 trang (một kỷ lục chưa từng xẩy ra) ca tụng Obama bằng danh từ và giai thoại vặt có tính cách thần thánh hoá Obama đến độ ngay các báo New York Times và Washington Post cũng cảm thấy hơi quá trớn.

Sự thiên vị cũng được thể hiện qua cách phổ biến tin tức.

Đài truyền hình ABC cách đây không lâu, gửi nữ ký giả Martha Raddatz qua Iraq thăm dò dư luận quân nhân Mỹ tại đây. Bà hỏi ý 60 quân nhân về ba ứng viên Obama, Hillary và McCain. Năm mươi bốn người nói sẽ bỏ phiếu cho McCain, 4 người ủng hộ Obama, và 2 ủng hộ bà Hillary. Tối hôm sau, khán giả coi TV ở Mỹ được thấy bà ký giả này phỏng vấn 3 quân nhân ủng hộ Obama và 2 quân nhân ủng hộ bà Hillary. Không có một lời nói nào về 54 quân nhân ủng hộ McCain.

Sự tôn sùng Obama lan qua tới hai cô con gái. Một ký giả của Associated Press viết bài nức nở ca ngợi hai cô bé Malia, 10 tuổi, và Sasha 7 tuổi này là rất ngoan, không bao giờ cãi nhau, sáng ngủ dậy biết tự làm giường, rồi tự đi lấy quần áo mặc đi học, mỗi ngày được bố Obama cho một đô vì giữ phòng ngủ sạch sẽ. Làm sao ký giả này biết rõ những chi tiết ấy vậy, nếu không phải là được chính hai ông bà Obama cung cấp, rồi cứ thế đăng lên báo thôi, coi như sự thực vì được đích thân Đấng Tiên Tri cung cấp!

Gần đây hơn, sự thiên vị của giới truyền thông còn được phơi bày hết sức lộ liễu trong cuộc công du nước ngoài của ông Obama.

Ngay sau khi đắc cử đại diện đảng Cộng Hòa, ông McCain đi ra nước ngoài ba lần, một lần đi Iraq, Afghanistan và Âu Châu, y như Obama bây giờ. Hai lần kia, ông đi Canada và Nam Mỹ. Nhưng cả ba cuộc chu du này đều chẳng ai hay biết. Giới truyền thông loan tin vắn tắt, coi như không có chuyện gì đặc biệt xẩy ra.

Nhưng gần đây khi đến phiên Obama chu du Iraq, Afghanistan và Âu Châu thì báo chí và truyền hình chạy tin hàng đầu trên trang nhất từ cả tuần trước đến cả tuần sau. Thậm chí, cả ba người đọc tin chủ chốt (anchorman/woman) của cả ba đài truyền hình ABC, CBS và NBC, cùng với hơn hai trăm ký giả đã đi theo phái đoàn của Obama. Ngay cả TT Bush khi đi công du viếng thăm chính thức một nước nào trên thế giới cũng chưa bao giờ có được sự “hộ tống” của cả ba đài truyền hình toàn quốc và nhiều ký giả như vậy!

Bị chỉ trích, các ký giả này giải thích là chỗ nào có tin sốt dẻo là họ cần phải đến. Thì cũng đúng vậy. Chỉ có điều là như thế có nghĩa là với họ, chỉ có chỗ nào có Obama thì mới là chỗ có tin sốt dẻo. Chỗ nào không có Obama là chỗ đó không có tin gì đáng nói"

Theo thống kê của một tổ chức giám sát truyền thông, trong sáu tuần lễ từ đầu tháng Sáu đến giữa tháng Bẩy vừa qua, tuần nào thì tin tức về Obama cũng được loan báo nhiều hơn tin tức về McCain. Tổng cộng số phút được dành cho Obama trên ba đài truyền hình chính là 2 tiếng (114 phút), trong khi McCain chỉ được chưa tới một tiếng (48 phút).

Chắc chắn với cuộc chu du của Obama, những con số này sẽ thay đổi nhiều. Thứ ba 22 tháng 7, Katie Couric của CBS có chương trình đặc biệt phỏng vấn Obama, hôm sau, 23 có Charlie Gibson của ABC, rồi hôm sau nữa, 24, tới phiên Brian Williams của NBC. Ba ngày, ba chương trình phỏng vấn đặc biệt, chưa kể các tin tức về cuộc chu du do hơn hai trăm ký giả khác loan tải. Trong khi ấy, McCain tới phi trường Manchester để viếng thăm tiểu bang New Hampshire được đúng… một ký giả ra đón. Các báo giải thích là họ… hết người vì tất cả đã được gửi đi theo Obama rồi.

Nếu nhìn vào khía cạnh tiền yểm trợ thì sự thiên vị cũng rất rõ. Theo báo cáo của hai ứng viên. Các cơ quan truyền thông và ký giả đã ủng hộ Obama hơn 315.500 đô, và yểm trợ McCain  3.150 đô, đúng 1% số tiền Obama nhận được!

Chuyện truyền thông phe đảng thiên vị Obama không có gì lạ. Điều lạ là dù cho tỷ lệ hậu thuẫn TT Bush xuống thật thấp và truyền thông tung hô Obama lên mây xanh, hy vọng thắng cử của Obama vẫn hết sức mong manh. Trong cuộc thăm dò dư luận của Newsweek tháng Sáu vừa qua, Obama thắng McCain 15 điểm, đến giữa tháng Bẩy, tỷ lệ này tụt xuống mức 3 điểm, rồi qua cuối tháng Bẩy, lại tuột nữa, xuống còn có 1 điểm. 

Dân Mỹ thật ra cũng không đến nỗi ngu ngơ lắm. Họ ý thức khá rõ sự thiếu trung thực của truyền thông. Theo như cuộc thăm dò dư luận mới đây của đài truyền hình Fox, hai phần ba dân Mỹ (67%) cho rằng truyền thông muốn Obama thắng, và chỉ có một phần mười (11%) dân Mỹ nghĩ rằng truyền thông trung lập. Một thăm dò dư luận khác cho thấy chỉ có khoảng 15% dân Mỹ tin tưởng giới truyền thông, chưa bằng một nửa mức hậu thuẫn 33% của TT Bush mà giới truyền thông không ngớt chê bai là bết bát nhất lịch sử Mỹ. Con số 15% này chỉ hơn có con số 11% mà dân Mỹ dành cho các dân biểu nghị sĩ Dân Chủ trong quốc hội.

Hoa Kỳ là xứ của tự do ngôn luận. Ai muốn nói gì thì nói. Báo chí muốn bênh phe nào hay chống phe nào là quyền của họ, được Hiến Pháp bảo vệ. Chỉ cần giới truyền thông có đủ tự trọng để đừng vỗ ngực cho rằng mình trung thực và trung lập thôi. Nhưng hình như đòi hỏi này hơi khó cho giới truyền thông cấp tiến Mỹ (26-7-08).

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hôm Thứ Sáu 26/9, Tổng Biên Tập JEFFREY GOLDBERG của tạp chí The Atlantic gửi ra tuyên bố phản đối lệnh của Ngũ Giác Đài về việc áp đặt, kiểm duyệt báo chí. Tuyên bố ghi rõ: “Về cơ bản, The Atlantic phản đối những hạn chế mà Ngũ Giác Đài đang cố gắng áp đặt đối với các nhà báo đưa tin về vấn đề quốc phòng và an ninh quốc gia. Những yêu cầu này vi phạm quyền Tu Chính Án Thứ Nhất của chúng ta, và quyền của người Mỹ muốn biết hình thức khai triển nguồn lực và nhân sự vốn do tiền thuế của người dân tài trợ. Những quy định này cũng phá vỡ các thông lệ lâu đời - dưới thời tổng thống của cả hai đảng, trong suốt thời kỳ chiến tranh và khủng hoảng quốc gia - vốn cho phép các phóng viên Ngũ Giác Đài thực hiện công việc của mình mà không bị can thiệp chính trị.” The Atlantic đăng tuyên bố này trên trang mạng xã hội chính thức của tạp chí.
Chuyện phải, trái ở đây không hẳn là chuyện đúng, sai mà đúng ra là chuyện bên phải (khuynh hữu hay thiên hữu) và bên trái (khuynh tả hay thiên tả) trong chính trị Mỹ. Tất nhiên, trên đời này mọi chuyện đều có hai mặt của nó. Trong chính trị cũng thế, đã có cánh phải thì ắt có cánh trái, vì đó không những là bản chất tương đối của mọi sự mọi vật mà còn là hiện tượng phải có trong một nền dân chủ. Tuy nhiên, nền chính trị Mỹ trong những năm gần đây đã bị phân cực và phân hóa trầm trọng. Thể chế dân chủ kiểu mẫu của Mỹ xưa nay đương nhiên chấp nhận sự khác biệt vì đó là một trong những yếu tính ắt có của một nền dân chủ thật sự. Nhưng đẩy sự khác biệt của mình đến mức cực đoan và biến sự khác biệt của người khác thành kẻ thù bất dung thì là hiện tượng biến dạng nguy hiểm báo hiệu sự sụp đổ của nền dân chủ. Nước Mỹ trong những năm gần đây đã chứng kiến nhiều hiện tượng cực đoan như thế.
Với sự tham gia của khoảng 100.000 binh sĩ, cuộc diễn tập quân sự Nga-Belarus mang tên “Zapad 2025” đang được khối NATO theo dõi chặt chẽ và các quốc gia phía đông của liên minh cực kỳ lo ngại, đặc biệt nhất là sau khi các máy bay không người lái của Nga xuất hiện trên bầu trời Ba Lan. Cuộc tập trận này vẫn diễn ra theo chu kỳ bốn năm một lần, nhưng lần này, chính giới và công luận xem đây là phép thử đối với khả năng phản ứng của NATO trong bối cảnh địa chính trị mới. Để đối phó, NATO và Ukraine đang tăng cường các biện pháp an ninh, khi nguy cơ chiến tranh được đánh giá là ngày càng leo thang. Kinh nghiệm từ năm 2022 cho thấy Nga đã tiến hành các cuộc tập trận trước khi mở cuộc tấn công vào Ukraine. Câu hỏi đặt ra là liệu lịch sử có lặp lại không và tình hình hiện nay nghiêm trọng đến mức nào?
Khi chính phủ liên bang đe dọa cắt hàng tỷ đô la tài trợ nghiên cứu cho Harvard, đó không chỉ là một quyết định ngân sách. Đó là một phép thử cho chính nền tảng dân chủ: liệu chính quyền có thể dùng sức mạnh tài chính để định đoạt tư tưởng hay không. Tòa án liên bang vừa trả lời dứt khoát: không.
Ở với cộng sản, tuy còn trẻ con, chúng tôi đã hiểu thấu bài học: không nói theo là có tội, mà nói khác đi lại càng là trọng tội. Bước sang Mỹ, cứ tưởng rằng mọi chuyện sẽ khác vì đây là đất tự nhận là xứ sở tự do, nơi hiến pháp bảo đảm quyền được nói. Nhưng tuần qua, sau mấy chục năm ở Mỹ, tôi bỗng bắt gặp chính mình ngập ngừng muốn nói điều thật: tôi không thích Charlie Kirk, và tôi không muốn “celebrate his life” (tôn vinh cuộc đời ông).
Không rõ ABC có lường trước được phản ứng của cộng đồng, khán giả đối với hành động cúi đầu trước áp lực và quyền lợi, dẫn đến dừng ngay lập tức Jimmy Kimmel Live! hay không, nhưng thực tế đã cho thấy một làn sóng tức giận đã bùng nổ. Viên đạn dường như quay ngược lại, xé gió, đâm thẳng vào ba ký tự khổng lồ của đế chế truyền thông. Các cuộc tẩy chay Hulu và Disney+ bắt đầu. Trang mạng Disney+ bị sụp đổ vì lượng khán giả đăng nhập để “cancel subcription” trong đêm họ ra lệnh tắt đèn sân khấu; Disney mất gần $4 tỷ trên thị trường. Hàng loạt cuộc biểu tình phản đối trước trụ sở của ABC và Disney. Về phía các nhà báo, nghệ sĩ giải trí, các nhà lãnh đạo chính trị – từ Stephen Colbert đến David Letterman đến cựu Tổng thống Barack Obama – cùng lên án việc làm của ABC, coi đó là sự đầu hàng nguy hiểm trước áp lực chính trị và là phép thử đối với quyền tự do ngôn luận.
Nhìn vào những gì đang diễn ra tại nước Mỹ hiện nay, người ta không thể không liên tưởng đến cuộc cách mạng văn hóa tại Trung Quốc như vậy. Cũng là cuộc tấn công vào những gì bị cho là khuynh tả, là sự tập trung quyền lực vào một cá nhân qua phong trào cuồng lãnh tụ với những vệ binh trung thành chưa từng thấy tại Hoa Kỳ.
Người ta thường có nhiều cách định nghĩa về hy vọng. Hy vọng là một cảm xúc lạc quan, một niềm tin tươi sáng rằng mọi thứ chắc chắn sẽ được cải thiện. Hy vọng có thể đến từ một tiếng nói cá nhân xa lạ nào đó trong triệu triệu người trên thế giới này. Hy vọng có thể đến từ một bản tuyên bố chung của hai phong trào đối lập. Hy vọng là phải nhận ra rằng cái ác và sự bất công có thể chiếm ưu thế ngay cả khi chúng ta đang đối đầu với nó. Hy vọng là khi nhìn thấy rõ một bên sáng và một bên tối, thấu hiểu rằng vòng cung của vũ trụ đạo đức có thể không uốn cong về phía công lý – nhưng chúng ta không tuyệt vọng. Hy vọng, là khi một đêm vinh danh nghệ thuật trở thành nơi hàng trăm người giơ cao ngọn đuốc tôn vinh sự kiên cường, tiếng nói dũng cảm, như một lời nhắc nhở với thế giới rằng nghệ thuật và nhân văn là không thể tách rời.
Donald Trump từng bóng gió rằng mình xứng đáng được khắc tượng trên núi Rushmore, sánh vai cùng những bậc khai quốc công thần nước Mỹ. Bên kia Thái Bình Dương, Tập Cận Bình chẳng màng đá núi, nhưng ôm mộng lọt vào sử xanh, đặt mình ngang hàng những “đại thánh đế vương” của đảng và đất nước. Bởi thế, cuộc duyệt binh rùm beng ở Thiên An Môn vừa rồi không chỉ là phô trương cờ trống rình rang, mà là lời tuyên cáo giữa chiến địa, là tiếng trống thúc quân của một kẻ đang gấp gáp thúc ngựa đuổi theo bá mộng thiên cổ.
Bạn, tôi, chúng ta, không ai an toàn trước bạo lực súng đạn ở Mỹ. Chắc người Mỹ chưa kịp quên hình ảnh người mẹ tất tả chạy trên đôi chân trần, tìm con trong vụ xả súng mới nhất ở Annunciation Catholic School in Minneapolis tháng vừa qua. Những đứa trẻ xứng đáng có đời sống an toàn để đến trường mỗi ngày và trở về an toàn trong vòng tay cha mẹ. “Thay vì kích động thêm bạo lực, các nhà lãnh đạo chính trị nên tận dụng thời điểm này để đoàn kết chúng ta hướng tới những thay đổi hợp lý về súng đạn mà đa số người Mỹ ủng hộ,” Giáo sư Robert Reich đã nói như thế.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.