Hôm nay,  

Người Mỹ Thực Tế

08/01/200800:00:00(Xem: 11011)

Hiến pháp Mỹ được thông qua năm 1787, trong đó không hề có một chữ "Thượng Đế" (God). Thời kỳ đó cách nay đã hơn hai thế kỷ, người dân Mỹ khi đó tuyệt đại bộ phận là dân Anglo-Saxon di cư từ vương quốc Anh sang tìm tự do tôn giáo hoặc mưu cầu một sự đổi đời, làm giàu. Với dân số gần 4 triệu khi Liên Bang Hoa Kỳ được thành lập, nguời Mỹ khi đó có nhiều tôn giáo khác nhau nhưng tất cả đều là Thiên Chúa giáo,  chỉ khác nhau hệ phái. Thế nhưng khi viết hiến pháp, họ đã có tầm nhìn xa đến cả mấy thế  kỷ. Họ không áp đặt tôn giáo, không kỳ thị tôn giáo.

Thực tế khác biệt về hệ phái tôn giáo  trong số những người đầu tiên lập nghiệp ở xứ sở mới va kinh nghiệm chiến tranh tôn giáo  ở lục địa cũ (old continent) đã cho họ những bài học quý giá. Họ vẫn là những tín đồ sùng tín ngày nào, nhưng họ thực tế hơn, nhìn xa, trông rộng hơn. Bản hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787 chính là viên gạch quan trọng xây dựng nên một nước Mỹ đa nguyên, đa văn hóa. Và đó không chỉ là sáo ngữ mà thực sự chính là nguyên tố căn bản tạo nên một đất nước bao  dung, phong phú mà ta biết như ngày hôm nay. Nước Mỹ chắc chắn không phải hoàn hảo,  nhưng nếu so sánh nước Mỹ và các nước đương thời khác ta không thể không thán  phục óc tiến bộ của họ.

Vào thời kỳ nước Mỹ lập quốc, những nước Á Đông chung quanh Việt Nam và cả chính nước Việt Nam ta khi đó, có mấy nước phân biệt được rạch ròi tôn giáo và quyền lực" Nếu một nhóm dân có một niềm tin khác với vương triều đương thời và  được để yên cho hành đạo, sinh hoạt thì đã là điều may mắn. Có triều đại phong kiến Á  Đông nào không muốn áp đặt tư tưởng, niềm tin của mình lên tất cả thần dân" Hiến pháp Hoa Kỳ phản ánh óc thực tế, tiến bộ của những người viết ra nó vậy.

Nội chiến Mỹ kéo dài bốn năm, để lại bao nhiêu tổn thất nặng nề, với số người chết hơn 600 ngàn, trở thành cuộc chiến tàn khốc nhất trong lịch sử Mỹ. Vị tổng thống Mỹ thời đó, ông Lincoln không phải chỉ là một lãnh tụ kiệt xuất mà ông còn là người thực tế và khôn ngoan. Ông Lincoln không đánh miền Nam vì miền Nam có chế độ nô lệ, mặc ông dù  chính ông tin vào lẽ công bằng, tin vào tương lai nước Mỹ sẽ không thể duy trì chế độ  nô lệ lâu dài. Ông hiểu rằng không thể thay đổi tư tưởng, quan niệm một bộ phận người dân một sớm một chiều, và cũng không thể chủ quan, vội vã ép buộc người khác theo chân lý của mình. Điều đó không phù hợp đối với một vị tổng thống như ông vì ông là tổng thống của tất cả chứ không phải chỉ những người cùng niềm tin với ông, và điều đó cũng không thực tế vì con người vốn chỉ thích nghi với hoàn cảnh và chịu ảnh hưởng trực tiếp từ cuộc sống thực tiễn quanh mình chứ hiếm khi vì lý lẽ của người đối lập với mình.

Sử sách Mỹ kể về những biến cố dẫn đến cuộc nội chiến thảm khốc có không ít những lời chỉ trích, phê phán những người đã gây ra cuộc đẫm máu ở Kansas năm 1856 (bleeding Kansas). John Brown, nhân vật chính trong biến cố là người chống chế độ nô lệ nhờ niềm tin vào Thượng Đế, vào lẽ công bằng, có thể khẳng định ông là người dũng cảm, là người đi trước thời đại. Nhưng lịch sử vẫn đánh giá khắt khe ông vì ông thiếu thực tế, ông quá khích, vì ông cho rằng niềm tin vào chân lý của ông biện hộ cho việc ông làm. Ông và bốn người con của mình đến Kansas đánh giết một nhóm người ủng hộ nô lệ và cũng là di  dân như ông đến đây để mong biến Kansas thành một tiểu bang có chế độ nô lệ. Bạo lực bùng nổ giữa hai phe và góp phần trực tiếp dẫn đến cuộc nội chiến 5 năm sau. Một cuộc nội chiến có thể tránh được nếu những thành phần ôn hoà làm chủ được tình thế lúc đó. Tổng thống Lincoln chỉ quyết định tiến đánh miền Nam khi họ tuyên bố tách khỏi Liên Bang ngay sau khi ông đắc cử tổng thống năm 1860.

Không lỗi lạc như Lincoln, nhưng tổng thống Nixon vẫn được không ít sử gia đánh giá cao về đường lối ngoại giao thực tế trong thời gian đương nhiệm. Nhắc đến Nixon, người ta liên tưởng ngay đến chiến tranh Việt Nam và Watergate. Cánh tả phê phán ông dối trá dân Mỹ, xem ông là một tay xảo quyệt, kéo dài một cuộc chiến không thể thắng, khoét sâu hố chia rẽ trong xã hội Mỹ. Cánh hữu trách cứ ông đã trói buộc quân đội Mỹ chiến thắng Cộng Sản khi giới hạn chiến tuyến trong miền Nam Việt Nam và đã nhân nhượng với Cộng Sản.

Thời gian trôi qua, người ta có thời gian để đánh giá ông khách quan hơn. Biến cố Đông Âu và Liên Bang Xô Viết sụp đổ cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 thôi thúc nhiều nhà nghiên cứu truy tìm nguyên do sự kiện lịch sử này. Và đã xuất hiện nhiều nhận xét về ông mang tính tích cực hơn. Người ta đánh giá cao chuyến đi Bắc Kinh 1972 trong chiến lược hoà hoãn  đồng thời chia rẽ khối Cộng Sản của ông với tham mưu của cố vấn Kissinger. Trong các tổng thống Mỹ cận đại là đảng Cộng Hoà, ông Nixon thuộc trường phái thực tế. Ông cũng "bất cộng đái thiên" với Cộng Sản như tổng thống Reagan, hay mạnh mẽ như tổng thống  George W. Bush chống khủng bố Hồi giáo, nhưng ông không chịu ảnh hưởng của tư tưởng  trường phái tân bảo thủ (neo-conservative), mà ông là người thực tế, hay nói trại đi ông là  một chính trị gia thực dụng.

Chính sách ngoại giao của ông xuất phát từ lập trường chống  chủ nghĩa bành trướng Cộng Sản, và vì thế mà ông chọn sách lược bao vây, chia rẽ khối  Cộng Sản, mà đứng đầu là Liên Bang Xô Viết, để nó suy yếu dần và cộng hưởng với nhiều điều kiện khác cuối cùng nó sẽ sụp đổ. Nhưng để tránh thế giới rơi vào nguy cơ thế chiến  thứ 3 với những thứ vũ khí ghê gớm gâp bội lần 2 quả bom nguyên tử rơi xuống đất nước  Phù Tang năm 1945, ông dùng chính sách ngoại giao hoà hoãn với khối Cộng Sản. Cứng  mềm, cương nhu cùng song hành không phải chỉ là sách lược chiến tranh trong Tôn Tử  Binh Pháp, mà có thể nói nó còn là quy luật sống của nhân loại từ thời tạo thiên lập địa.

Ta  có thể chọn thái độ ca ngợi hay chê trách người Mỹ, nhưng ta khó có thể phủ nhận là  người Mỹ có óc thực tế. Hành động của họ không quá khó hiểu nếu ta không quên truy tìm  mọi động cơ xuất phát từ lợi ích của họ. Điều đó có thể phũ phàng với nhiều người nhưng  nó thật rất tự nhiên và sòng phẳng. Và nếu ta thành tâm suy niệm lại tất cả những gì ta làm,  đã có bao nhiêu hành động của ta không thực sự xuất phát từ quyền lợi" Quyền lợi ở đây  không chỉ là tiền tài, danh vọng, mà còn là cái tôi, lòng kiêu hãnh...

Đã có không biết bao  nhiêu ví dụ về những việc làm của một cá nhân, một tổ chức, hay lớn hơn nữa là một quốc  gia mà nếu chỉ nhìn bề mặt thì nó có vẻ bắt nguồn từ một mục tiêu cao cả, nhưng khi nhìn sâu hơn và khi ta có thời gian để đánh giá toàn diện hơn thì ta phát hiện động cơ sâu xa  chính là quyền lợi cá nhân, phe nhóm hay của riêng dân tộc này đối với dân tộc kia.

Trong cuộc sống hằng ngày, ta có thể nhận ra cá tính thực tế của người Mỹ trong nhiều phương diện. Một thí dụ nhỏ nhưng gần với đời thường là khi một gia đình người Mỹ vào  một nhà hàng gọi món ăn. Hoặc là mỗi người tự trả riêng hoặc nếu có ai đó muốn trả tiền  cho tất cả mọi người thì người ấy sẽ nói trước. Dù là anh em, cha mẹ và con cái đi ăn chung cũng thế, họ luôn sòng phẳng nhưng rất thực tế.

Người Việt ta có thói quen hiểu ngầm, biết nhưng không nói ra. Duy có điều, ngày càng nhiều người nhận ra điều này không còn là thượng sách, thiếu thực tế vì thật ra mọi người đâu có phải luôn đồng lòng, nghĩ giống  nhau đâu. Ngoài mặt ta có thể vì tình cha con, anh em, huynh đệ mà không nghĩ ngợi những thứ cho là nhỏ nhặt, nhưng có phải ta luôn thực sự nghĩ thế đâu. Tình cảm thực sự không đơn giản chỉ được đánh giá qua những cử chỉ "hào hiệp" tức thời. Chẳng phải ngay cả  người Việt cũng có những vụ án anh giết em, con giết cha, chồng giết vợ chỉ vì tiền đó  sao" Sao lại có thể cho rằng chỉ có người Mỹ thiếu tình cảm gia đình mới sinh ra những  chuyện tồi tệ"

Chấp nhận thực tế là một bước quan trọng trong quá trình hiểu mình, hiểu  người, để rồi sau đó ta đón nhận nó và cuối cùng là trân trọng nó. Thực tế chính là công  nhận sự thật, điều mà người không có hoặc thiếu thực tế không dám nhìn nhận nó hoặc  không muốn tìm hiểu nó.

Cách mạng có khi là giả hiệu, nhưng ngay cả khi cách mạng mang lại thay đổi chính đáng, ích nước lợi dân thì nó vẫn không bằng không có cách mạng, vì cách mạng luôn kéo theo sự thay đổi lớn lao trong cuộc sống đối với mọi tầng lớp dân chúng.

Trong lịch sử có thể nói chưa có nước nào không có cách mạng mà vẫn phát triển vì lịch sử nhân loại không bằng phẳng, không đơn giản mà đầy dẫy những đấu tranh của những tầng lớp bị trị, nghèo đói giành quyền sống, quyền tự do, độc lập. Nhưng một điều chắc chắn là nước Anh, mà cụ thể hơn là người Anglo Saxon, dân tộc đầu tiên tiên lập nghiệp, xây dựng  và góp phần lớn nhất trong việc tạo nên một nền văn hóa đa nguyên ở Mỹ, có ít cách mạng nhất và cách mạng ít đẫm máu nhất.

 Hiệp ước Magna Carta 1215 và Cách Mạng Huy Hoàng (Glorious Revolution) 1688 theo thứ tự đem lại nhiều quyền hơn cho quý tộc và nghị viện Anh, giảm bớt quyền lực của hoàng gia, và tránh được tối đa sự đổ máu. Đó chính là những cột mốc đánh dấu sự dịch chuyển quyền thế từ cao xuống thấp trong xã hội Anh nói riêng và cả nhân loại nói chung. Người Anglo-Saxon thực tế nên họ biết ngồi lại thương thảo với nhau, không ngoan cố, "thắng không kiêu," người ngồi trên biết lùi khi đến lúc, kẻ dưới biết tiến vừa phải, không quá khích.

Cách mạng Pháp 1789 kéo theo nó biết bao hỗn loạn, giêt chóc một phần vì người Pháp thiếu óc thực tế như người Anh, mà cách mạng thì dễ quá đà vì những người vừa lên nắm quyền thì tự phụ, còn đám dân đen thì thiếu thực tế, tưởng cách mạng là đổi đời, là từ nghèo ra giàu. Gần đây hơn, ta còn thấy điều đó ở Nga năm 1917, Trung Hoa những năm 1911, 1965, và cả ở Việt Nam...

Lịch sử có vô vàn sự kiện diễn tiến liên tiếp nhau. Nhưng nếu ta nhìn vào những thuộc địa của Anh 2, 3 thế kỷ trước và bây giờ là những đất nước giàu có như Mỹ, Canada, Úc và so sánh những nước này với các thuộc địa của Pháp, Tây Ban Nha thì ta thấy gì" Người Pháp và Tây Ban Nha chú tâm truyền bá văn hóa, tôn giáo của họ đến các thuộc địa hơn là phát triển thương nghiệp, kiến thiết thuộc địa. Ngoài những lý do khác thì đó là những  nguyên nhân quan trọng góp phần trì hoãn sự phát triển các thuộc địa của Pháp và Tây Ban  Nha so với các thuộc địa của Anh.

Đến ngày hôm nay, người dân những nước một thời là  thuộc địa tâm tư thế nào đối với những người da trắng đô hộ họ ngày xưa, ta có thể thấy là lòng thương ghét đối với người Pháp và Tây Ban Nha cũng gần giống với người Anh.  Tốn bao nhiêu xương máu, tâm trí để "giáo hóa" dân bản xứ để rồi không gặt hái được hơn tình cảm dân thuộc địa mà còn đẩy các xứ thuộc địa lâm vào tình trạng trì trệ so với  các thuộc địa của Anh thì có thể xem là thành công được chăng" Người Anh thực tế, họ  chỉ chú trọng thương mãi và hiểu rằng truyền bá tôn giáo, văn hóa có thể tạo được cảm  tình của một bộ phận dân chúng nhưng cũng tạo sự chia rẽ, thù ghét của những bộ phận  dân chúng khác. Văn hoá, tôn giáo mỗi nơi khác nhau, nhưng khát vọng cuộc sống hằng  ngày được ấm no, sung túc thì đâu cũng thế. Như vậy, phát triển thương mại không phải là  dung hòa và thực tế nhất đó sao" Trong những di sản người Mỹ thừa kế được từ người Anh thì tính thực tế phải được liệt vào hàng đầu.

Ta có thể tin vào đấng toàn năng, nhưng ta không thể phủ nhận thực tế cuộc sống muôn mặt. Ta có thể rơi vào tâm trạng hoang mang, cô đơn khi nhận ra thực tế không như những quan niệm, lập trường ta ấp ủ, nhưng thực tế khách quan không chờ đợi ta công nhận nó hay không. Lịch sử loài người mặc dù luôn được đánh dấu bởi những sáng tạo, phát minh vĩ đại của con người, nhưng từ ngày khai thiên lập địa bốn tỉ năm trái đất hiện hữu vẫn chủ yếu là quá trình thích nghi của loài người với thiên nhiên. Loài người tồn tại và phát triển là vì biết thích nghi với hoàn cảnh, không như biết bao loài thú khác vì không thích nghi mà phải diệt vong. Chẳng  phải Darwin đã đưa ra thuyết "sự tồn tại của những loài biết thích nghi nhất" là cùng một ý đó sao"

Tôn giáo và khoa học không mâu thuẫn vì tôn giáo nói đến cái bao la, vô hạn và vô hình còn khoa học thì nói đến cái hiện hữu, cái giới hạn. Cuộc sống vốn đa diện, phong phú, trong  đó có những cái vừa mâu thuẫn vừa tương hỗ nhau cùng tồn tại nhưng nó hé mở cho ta  một cái nhìn, ở đó ta giữ được những niềm tin kín đáo, sâu thẳm nhất mà vẫn đồng  hành tiến bộ trong hoà bình cùng nhân loại. Thực tế tức là linh động, không câu chấp, gượng ép thế giới khách quan vào trong cái túi hiểu biết bé nhỏ và định kiến chủ quan của ta, mà uyển chuyển thích ứng với cuộc sống muôn mặt. Nếu ai đó bảo rằng văn minh  Á Đông với bao túi khôn của tiền nhân, trong đó có Kinh Dịch bàn về sự biến thiên  vô cùng trong vũ trụ và kết luận rằng không phải chỉ có người Mỹ mới hiểu sâu sắc về thực  tế thì cũng không sai vậy. Nhưng ta đã ứng dụng nó chưa, hay ứng dụng một cách hiệu  quả chưa"

Bài viết gom nhặt những suy nghĩ tản mạn của người viết để chia sẻ cùng bạn đọc, mà không có ý biến nó thành một bài nghiên cứu nên đã không trích dẫn những tài liệu tham  khảo vốn có thể làm cho bài viết trở nên khô khan.

Tháng 1, 2008 West Palm Beach

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Từng là một trung tâm thương mại sầm uất và biểu tượng cho niềm hy vọng đang dâng cao về tương lai dân chủ trong khu vực, Hồng Kông hiện đang đối mặt với các biện pháp kiểm soát ngày càng siết chặt của chính quyền Bắc Kinh. Từ năm 2019 cho đến nay, khoảng hơn 200.000 người đã ra đi để cố thoát khỏi bầu không khí chính trị ngày càng ngột ngạt. Với việc áp dụng Luật An ninh Quốc gia, quyền tự trị của Hồng Kông từng được cam kết trong mô hình “một quốc gia, hai chế độ” đã bị gần như hoàn toàn xoá bỏ. Xu hướng toàn trị của chính quyền Trung Quốc không những ảnh hưởng trực tiếp đến số phận nghiệt ngã của Hồng Kông mà còn gián tiếp đến trào lưu dân chủ hoá của Việt Nam.
Ở New York, khoảng 2 triệu cử tri đã đi bỏ phiếu cho cuộc bầu cử thị trưởng lần này, cao nhất từ năm 1969, theo dữ liệu của NBC. Tất cả người dân hiểu được tầm quan trọng của lá phiếu lần này. Mười tháng qua, có vẻ họ hiểu được mức an toàn cuộc sống của họ ra sao, và sức mạnh của nền dân chủ hơn 200 năm của Hoa Kỳ đang lâm nguy như thế nào.
Mamdani không bán mộng. Anh bán khả thi. Và cử tri, sau nhiều lần bị dọa nạt, có vẻ đã chọn đúng thứ cần mua. Hy vọng, khi ấy, không phải lời hứa. Nó là hóa đơn thanh toán mỗi cuối tháng, nhẹ hơn một chút — và là bằng chứng rằng lý trí vẫn chưa bị bôi xóa.
Hiến pháp là văn bản pháp lý tối cao quy định các nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước, xác lập thẩm quyền của các cơ quan công quyền, đồng thời quy định các chế độ kinh tế, văn hóa, xã hội và những quyền cơ bản của công dân. Tất cả các cơ quan nhà nước và công dân đều có nghĩa vụ tuân thủ Hiến pháp...
Trong bài phát biểu tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ở New York hôm 23 tháng 9 năm 2025, Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump đã nói rằng, “Biến đổi khí hậu, bất kể điều gì xảy ra, các bạn đã bị cuốn hút vào đó rồi. Không còn việc hâm nóng toàn cầu nữa, không còn chuyện toàn cầu lạnh cóng nữa. Tất cả những tiên đoán này được thực hiện bởi Liên Hiệp Quốc và nhiều tổ chức khác, thường là những lý do tồi và đều sai lầm. Chúng được tiên đoán bởi những kẻ ngu mà dĩ nhiên là số phận của đất nước họ và nếu tiếp tục thì những quốc gia đó không có cơ hội để thành công. Nếu các bạn không tránh xa khỏi trò lừa đảo xanh này thì đất nước của các bạn sẽ thất bại.” Đó là lời chứng rõ ràng được đưa ra trước cộng đồng quốc tế về quan điểm và hành động của chính phủ Trump chống lại các giá trị khoa học mà nhân loại đã, đang, và sẽ tiếp tục giữ gìn và thực hiện để làm cho cuộc sống ngày càng văn minh tiến bộ và hạnh phúc hơn.
Năm xưa, khi Benjamin Franklin rời khỏi Hội nghị Lập hiến năm 1787, một người phụ nữ hỏi ông: “Ngài Franklin, chúng ta có được chính thể gì, một nền quân chủ hay một nền cộng hòa?” Ông đáp: “Một nền cộng hòa, nếu các người còn giữ được nó.” Benjamin Franklin muốn nói, một nền cộng hòa, tức chính quyền của nhân dân, dựa trên luật pháp và trách nhiệm của người dân. Nền cộng hoà không tự bền vững, nó chỉ tồn tại nếu người dân có đủ phẩm hạnh, lý trí. Dân chủ không phải một thành quả, mà là thử thách liên tục. Câu nói ngắn gọn, đanh thép năm xưa của Franklin nay linh nghiệm, dưới thời Donald Trump.
Sáng nay, một post trên mạng xã hội của một người bạn làm tôi khựng lại: “Nếu không thích nước Mỹ, thì cuốn gói cút đi.” Câu đó khiến tôi nhớ về một buổi chiều hơn mười năm trước. Hôm ấy, nhóm bạn cũ ngồi quây quần, câu chuyện xoay về ký ức: Sài Gòn mất. Cha bị bắt. Mẹ ra tù. Chị em bị đuổi học, đuổi nhà. Và những chuyến tàu vượt biển không biết sống chết ra sao. Giữa lúc không khí chùng xuống, một người bạn mới quen buông giọng tỉnh bơ: “Các anh chị ra đi là vì không yêu tổ quốc. Không ai ép buộc dí súng bắt các anh chị xuống tàu cả.” Cả phòng sững sờ. Ở đây toàn người miền Nam, chỉ có chị ta là “ngoài ấy.” Vậy mà chị không hề nao núng. Ai đó nói chị “gan dạ.” Có người chua chát: “Hèn gì miền Nam mình thua.”
Trong cái se lạnh của trời Tháng Mười vào Thu, khi màu lá trên khắp nước Mỹ chuyển sang gam màu đỏ rực, vàng óng, thì một cơn bão đang âm ỉ sôi sục, len lỏi dưới bề mặt của cuộc sống người Mỹ. Gió càng thổi mạnh, cơn bão ấy sẽ càng nhanh chóng bùng nổ. Vỏn vẹn trong một tháng, nước Mỹ chứng kiến ba sự kiện chấn động, nức lòng những người đang dõi theo sự mong manh của nền Dân Chủ. Mỗi sự kiện diễn ra trong một đấu trường riêng của nó, nhưng đều dệt nên từ cùng một sợi chỉ của sự phản kháng kiên cường: bắt nguồn từ sự phỉ báng tính chính trực của quân đội; tước toạt thành trì độc lập, tự do của báo chí – ngôn luận; và những cú đánh tới tấp vào sức chịu đựng của người dân.
Hiểu một cách đơn giản, văn hoá là một khái niệm tổng quát để chỉ sự chung sống của tất cả mọi người trong cùng xã hội, bao gồm ngôn ngữ, phong tục tập quán, tôn giáo và luật pháp. Do đó, luật pháp là một thành tố trong toàn bộ các hoạt động văn hoá và có ảnh hưởng đến tiến trình phát triển xã hội, một vấn đề hiển nhiên...
Bất kỳ là ai, trẻ cũng như già, nữ cũng như nam, thật là tò mò, nếu chúng ta có thể biết được tương lai gần hoặc xa của mình, của người khác. Biết được tương lai là chuyện thú vị, hoặc căng thẳng, hoặc sôi nổi, hoặc sợ hãi. Ví dụ như bạn tiên đoán được ba tháng nữa sẽ gặp tai nạn hoặc cuối năm nay sẽ bị vợ ly dị. Nhưng có thể nào tiên đoán như vậy không? Làm gì có, chỉ là chuyện giả tưởng, chuyện phim ảnh và tiểu thuyết. Chuyện mấy bà phù thủy nhìn vào thau nước hoặc quả bóng kính trong thấy được chuyện mai sau, việc mấy ông thầy bói bấm tay nhâm độn, lật bài bói toán, v… v… chỉ thỏa mãn giấc mơ và tưởng tượng. Trong thực tế, chuyện đang xảy ra còn chưa giải quyết xong, nói chi chuyện ngày mai. Không đúng, nếu biết chuyện ngày mai thì chuyện hôm nay vô cùng dễ giải quyết. Ví dụ, “nếu biết rằng em sẽ lấy chồng, anh về lấy vợ thế là xong. Vợ anh không đẹp bằng em lắm, nhưng lấy cho anh đỡ lạnh lòng.” (Thơ vô danh). Thay vì cứ đeo đuổi hai ba năm sau, kéo dài buồn bã, đau khổ, để rồi “Lòn


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.