Hôm nay,  

Đọc ‘Giọt Nắng Xiên’ Của Lê Anh Dũng Và Diệp Thế Mỹ

15/07/200800:00:00(Xem: 12174)
Một chiều chủ nhật tháng Bẩy trong thánh đường thành phố Garden Grove. Vị linh mục mở đầu bài giảng bằng tiểu sử nhà thơ Phùng Quán. Sau khi đã nói về cuộc đời nhà thơ, vị linh mục đã đọc nguyên bài thơ "Lời mẹ dặn" của thi sĩ Phùng Quán và trang trọng ngâm ngợi những câu thơ mà ông cho rằng "quá đẹp":

Yêu ai cứ bảo là yêu,

Ghét ai cứ bảo là ghét,

Dù ai ngon ngọt nuông chiều

Cũng không nói yêu thành ghét

Dù ai cầm dao dọa giết

Cũng không nói ghét thành yêu

Tôi muốn làm nhà văn chân thật

Chân thật trọn đời

Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi

Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã

Bút giấy tôi, ai cướp giật đi

Tôi sẽ dùng dao viết văn trên đá.

Cũng với tư tưởng những lời thơ "quá đẹp" đó, vị linh mục đã sang sảng ca ngợi tư tưởng của Phùng Quán, sau ba mươi năm bị chà đạp, mất hết nhân tính con người, ông đã tâm sự đôi khi thấy vô cùng tuyệt vọng, "tôi phải vịn câu thơ mà đứng dậy."

"Vịn câu thơ mà đứng dậy", vâng, cũng như Phùng Quán, có những người phải vịn vào văn chương mà đứng dậy. Như Lê Anh Dũng và hiền thê Diệp Thế Mỹ, đồng tác giả của "Giọt Nắng Xiên", hai tâm hồn đã có nhiều lúc phải "vịn" vào tâm hồn văn chương của mình mà đứng dậy. Lê Anh Dũng, một cựu chiến sĩ, một tù cải tạo, đã vịn vào danh dự của một quân nhân, vào những kỷ niệm thời đi lính, vào thuở mà tình yêu chân thành của anh gửi gấm cho người tình cũng mộc mạc như anh, để đứng dậy, mặc dù anh bị chế độ độc tài, dã man đầy đọa anh qua suốt bao nhiêu năm tháng tù ngục. Anh đã đứng dậy, như khi anh tập đạp chiếc xe xích lô lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng, ngã dúi dụi bên lề đường, với những bao đồ nặng chĩu, đầu váng, mắt hoa, tay chân đẫm máu (Con dốc cầu Nhị Thiên Đường, trang 79). Anh đã đứng vững như đã từng đứng hiên ngang bao lần, khi anh còn tham dự những cuộc hành quân ở cao nguyên, Đức Cơ, Pleiku, biên giới Miên Việt (trang 9). Rồi trong trại tù khổ sai "Miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa", đói, khát, lạnh, rét, cực, cô đơn... Lê Anh Dũng đã kể lại cuộc đời mình qua những đoạn văn ngắn đầy hình ảnh, tuy không rầm rộ, máu lửa, nhưng rất chân thật. Tuy không sống gần gụi, nhưng tác giả đã thể hiện được những giấc mơ của thi sĩ Phùng Quán: "Tôi muốn làm nhà văn chân thật, chân thật trọn đời." Tác phẩm của Lê Anh Dũng hiền hòa, đơn giản, nhưng lại phác họa rõ nét chân dung của những con người chân thật. Những câu văn không- một - chút- làm - dáng của Lê Anh Dũng lại làm cho người đọc tự nhiên muốn trở về bơi lội trong những dòng sông quê hương, muốn hòa tan trong kỷ niệm của tuổi thơ, dù mỗi người có một "dòng sông định mệnh" khác nhau. Lê Anh Dũng, tuy kể về mình, nhưng đồng thời cũng kể thay cho biết bao người, những mẩu chuyện đắng cay, tủi nhục khi ở trong tù, và lúc mừng mừng tủi tửi khi xum họp. "Ba con đó, hôn ba đi!" (trang 180). Chỉ có bấy nhiêu tiếng,  mà người đọc đã có thể tưởng tượng ra được hàng trăm, ngàn mảnh đời như thế, hoàn cảnh cay đắng như thế, sau bao năm xa cách, gặp lại vợ con, cha với con không thể nhận ra nhau được. Lê Anh Dũng, người viết văn chân thật, đã để lại trong lòng độc giả những câu chuyện đơn giản nhưng tình người lại rất mênh mang.


Còn những câu chuyện của Diệp Thế Mỹ, nguời vợ tù cải tạo, lại có rất nhiều đáng nói. Chị đại diện cho cả một thế hệ thiếu nữ từ chỗ tung tăng, hoa gấm, (Tuổi Măng Non, trang 20), trở thành vợ chiến sĩ, không đòi hỏi quà cáp cao sang, chỉ cần một chữ Yêu đơn giản, bình dị. Ngay cả sau hôn lễ, "lấy chồng đời chiến binh", người thiếu nữ chấp nhận tất cả thiếu thốn, mà vẫn vui, vì có lẽ, theo chị, người chiến binh thời đại là những anh hùng, cho nên cần chi bề ngoài, cần chi điệu bộ rườm rà! Rồi, từ đó, theo chiến cuộc, theo chồng, chị đã một ngày biến thành một con người làm được những việc mà trí tưởng tượng thiếu nữ không thể nào hình dung được. Chiến tranh ư" Tuy không phải là chiến sĩ, chị cũng chứng kiến không biết bao nhiêu bom đạn đổ trên quê hương, bao nhiêu kinh hoàng, chết chóc; tuy chị không là quân nhân, nhưng nếu không có những con người dũng cảm như chị, chắc những người chiến sĩ kia, còn phải chịu bao gánh nặng khó kham. Và, không biết từ khi nào, có lẽ bắt đầu giai đoạn tù ngục của anh, chị đã âm thầm, lặng lẽ tiếp sức anh chiến đấu trên phương diện khác, phương diện của một người vợ một kẻ đã bị chế độ loại ra ngoài sinh hoạt xã hội. Những người vợ cải tạo như chị, đã quần quật như nô lệ, trong một đất nước mà người bóc lột người. Điều kinh ngạc ở đây là tất cả mọi tiếng kêu phẫn nộ, chị đã cho trôi ngược vào lòng, chịu đựng chúng, chỉ với một ý định duy nhất: được gặp lại người yêu khỏe mạnh, oai hùng. Đã biết bao lần, như chồng, chị muốn gục ngã, vì cuộc đời đối xử với lớp người như chị quá tệ, nhưng chị đã "vịn văn chương mà đứng dậy." Chị đã vươn lên, như hoa sen trong bùn. Bây giờ, chị đã sống hiền hòa trong dòng văn hóa Việt Nam, dù lời văn của chị nhẹ nhàng, đơn giản, không hào nhoáng kiêu kỳ, nhưng chứa đựng biết bao ý từ nồng hậu.

Đọc "Giọt Nắng Xiên" của Lê Anh Dũng và Diệp Thế Mỹ, mới thấy trong cuộc đời Việt Nam sau 75,  còn quá nhiều tâm hồn cao đẹp để ngưỡng mộ.

Chu Tất Tiến. 

(Nhà văn Lê Anh Dũng và Diệp Thế Mỹ sẽ giới thiệu cuốn Giọt Nắng Xiên, từ 10 giờ 30 sáng đến 2 giờ trưa, ngày thứ Bẩy 19 tháng 7, 2008 tại Regent West, đường First St, Santa Ana.)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.
Từng là một trung tâm thương mại sầm uất và biểu tượng cho niềm hy vọng đang dâng cao về tương lai dân chủ trong khu vực, Hồng Kông hiện đang đối mặt với các biện pháp kiểm soát ngày càng siết chặt của chính quyền Bắc Kinh. Từ năm 2019 cho đến nay, khoảng hơn 200.000 người đã ra đi để cố thoát khỏi bầu không khí chính trị ngày càng ngột ngạt. Với việc áp dụng Luật An ninh Quốc gia, quyền tự trị của Hồng Kông từng được cam kết trong mô hình “một quốc gia, hai chế độ” đã bị gần như hoàn toàn xoá bỏ. Xu hướng toàn trị của chính quyền Trung Quốc không những ảnh hưởng trực tiếp đến số phận nghiệt ngã của Hồng Kông mà còn gián tiếp đến trào lưu dân chủ hoá của Việt Nam.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.