Hôm nay,  

Tịnh Độ Ngay Nơi Tâm Tịnh

06/01/200900:00:00(Xem: 10388)

TỊNH ĐỘ NGAY NƠI TÂM TỊNH
Trong khóa tu Tịnh Độ.                                                
Hạnh Chi
Chúng ta đang ở vào thời mạt pháp. Trong thời này, pháp môn Tịnh Độ là phương tiện có thể đưa hành giả qua sông mê, tới bờ giác vì chỉ cần sự thành tâm niệm Phật bền bỉ, không phải toát mồ hôi vận dụng trí lực gì cả. 
Tôn chỉ của pháp môn này được căn cứ trên kinh A Di  Đà mà dựng lập. Ba yếu tố chính mà pháp môn đòi hỏi nơi hành giả là Tín, Nguyện và Hành.
Tín  là tin sâu. Nguyện là mong muốn hết sức tha thiết. Hành là thực hành việc trì danh hiệu Phật A Di Đà.
*
Hành giả tin sâu những gì"
- Tin Đức Thích Ca Như Lai là đấng Giác Ngộ hoàn toàn.
- Tin cõi Tây Phương Cực Lạc là cõi có thật, do Đức Phật A Di Đà làm Giáo Chủ.
- Tin Chư Phật sáu phương đều ca ngợi pháp môn Tịnh Độ là công đức bất khả tư nghì.
- Tin cõi Ta-bà ngũ trược do chiêu cảm ác nghiệp của chúng sanh; còn cõi Cực Lạc thanh tịnh là do tịnh nghiệp chúng sanh mà thành.
*
Hành giả nguyện thiết những gì":
- Nguyện hướng về tánh giác của mình. Tánh này là Phật tánh, ai cũng sẵn, nhưng thường bị phiền não mê lầm che lấp.
- Nguyện ly khổ đắc lạc. Bỏ bát-khổ cõi Ta-bà là sinh, lão, bệnh, tử, xa người thương, gần người ghét, mong cầu không được, năm ấm không an. Đạt an lạc cõi Cực Lạc là vui hóa sinh hoa sen, vui tự tại không bệnh, vui thọ mạng, không tứ đại phân ly …
- Nguyện được lên ngôi cửu phẩm không còn thối chuyển.
- Nguyện được thấy Phật A Di Đà.
*
Hành giả hành trì những gì"
- Chỉ một lòng niệm danh hiệu Phật A Di Đà, niệm thiết tha chân thật, niệm thành tiếng cũng như niệm thầm, phải kết được những câu niệm Phật thành chuỗi, thành phiến để đạt được nhất tâm bất loạn.
Ba yếu tố này như cái đỉnh ba chân, thiếu một chân, cái đỉnh sẽ ngã đổ. Đây là ba món tư lương mà những hành giả tu pháp môn Tịnh Độ cần có trên lộ trình về Tây Phương Cực Lạc. Được vãng sanh hay không là do hành giả có hay không có tin và nguyện; và phẩm vị cao thấp là do hành trì cạn hay sâu.
Hành giả pháp môn Tịnh Độ, ngoài niệm hồng danh Đức Phật A Di Đà, còn được hướng dẫn tụng hai cuốn kinh đại thừa là Kinh Vô Lượng Thọ và Kinh A Di Đà. Những Kinh này đều giới thiệu cõi nước đẹp đẽ của giáo chủ Tây Phương và cùng đề cập tới một chi tiết rất từ bi, rất đặc biệt. Đó là, nơi đây không chỉ hoàn toàn dành cho các bậc Thánh mà cũng có chỗ cho kẻ phàm, vì kẻ phàm nào quyết tâm tinh tấn tu học, quyết buông bỏ hệ lụy thế gian, quyết xin vãng sanh về cõi Phật thì giây phút lâm chung, dù còn nghiệp cõi này chưa trả hết, chư Phật vẫn hoan hỷ cho “quẩy nghiệp mà đi”, danh từ nhà Phật gọi là “Đới nghiệp vãng sanh”, lên cõi Phật tu tiếp và xả tiếp.
Với lòng từ bi vô lượng này của chư Phật mà cõi Cực Lạc mới có Phàm-Thánh-đồng-cư. Khi phàm được ở cùng cõi nước với Thánh để tu tiếp thì nhờ năng lượng Thánh, sự chuyển hóa nơi phàm sẽ hạnh thông gấp bội vì theo tinh thần lời Đức Phật Thích Ca khuyến tấn “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành” thì trong tự thân mỗi cá nhân đều có sẵn chất Thánh; hội đủ duyên, chất Thánh đó sẽ hiển lộ nhanh chóng hơn.
Được ở trong môi trường Phàm-Thánh-đồng-cư, chính là cơ duyên đó.
Nhưng chúng ta có cần chờ tới khi vãng sanh về Cực Lạc mới được hưởng hạnh phúc Phàm-Thánh-đồng-cư không"
Có lẽ là không.
Chúng ta có thể tạo cho nhau cảnh giới đó ngay bây giờ, ngay tại đây. Chúng ta không lạc quan quá đâu. Xin cùng giở kinh A Di Đà, rồi “y nghĩa bất y ngữ”, chúng ta sẽ thấy. Này nhé:      
Thế giới Cực Lạc có ao bảy báu, cát vàng ở dưới đáy ao tỏa ánh sáng xung quanh; thì thế giới Ta-bà cũng có biển xanh mây trắng, đáy biển cũng có biết bao san hô lộng lẫy, bao loài hải sản lớn nhỏ đủ mầu thảnh thơi bơi lội.
Thế giới Cực Lạc có những ngọn gió thơm thổi qua hàng cây báu phát ra vô lượng pháp âm vi diệu khiến người nghe âm thanh đó liền được tâm thanh tịnh; thì cõi Ta-bà cũng có tiếng chuông, tiếng khánh, tiếng đại hồng chung, người nghe được âm thanh mầu nhiệm đó cũng thức tỉnh khỏi cuồng mê phiền não.
Thế giới Cực Lạc có hoa sen sắc vàng, hồng, tía; thì cõi Ta-bà cũng có ngàn hoa dị thảo nở rộ bốn mùa.
Thế giới Cực Lạc có các loài chim Khổng Tước, Anh Võ, Xá Lợi, Ca Lăng Tần Già, Cọng Mạng thuyết pháp, người nghe được sẽ khởi tâm niệm Phật; thì thế giới Ta-bà cũng có Oanh, Yến, Họa Mi … cùng nhau líu lo, ai  nghe tiếng hót vui vẻ đó, phiền muộn cũng nguôi ngoai.
*
Còn nhiều, nhiều nữa. Thế giới Ta-bà có thiếu gì, so với thế giới Cực Lạc đâu. Nhưng chúng sanh ở Ta-bà đầy khổ đau, sân hận, vì chúng sanh thường vụng về để cho tâm mình chìm trong vô minh như thế!    


Kinh Hoa Nghiêm dạy rằng chúng sanh nào muốn hiểu rõ, thấy rõ chư Phật ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai thì phải biết quán, là bản chất của tất cả các pháp đều do TÂM tạo:
“Nhược nhân dục liễu tri
Tam thế nhất thiết Phật
Ưng pháp quán giới tánh
Nhất thiết duy tâm tạo”
Phải chăng tinh thần bài kệ này dạy rằng cõi Tịnh Độ là sáng tạo của tâm chư Phật, chư Bồ Tát, mà cũng là sáng tạo của chúng sanh, nếu tâm chúng sanh biết quán như thế.
Đạo tràng Tịnh Độ mở ra là để những hành giả theo pháp môn Tịnh Độ cùng ngồi với nhau, nhất tâm nhất trí sáng tạo ra cõi nước Cực Lạc ngay hiện tiền, ngay nơi tiếng niệm Phật tiếp nối nhau, trầm hùng cất lên, hòa vào âm thanh đại hồng chung ngân dài, tiếng khánh lảnh lót, tiếng mõ khoan thai. “Tự tánh Di Đà. Duy tâm Tịnh Độ” thì thế nào tiếng niệm Phật thiết tha chẳng nở thành đóa sen trong tâm hành giả. Với đóa sen Tịnh Độ trong tâm, cần thêm một chút quán chiếu, chúng ta sẽ nhận ra lời trong kinh khi đề cập “Chư thượng thiện nhân câu hội nhất xứ” và những vị Bồ Tát “Nhất sanh bổ xứ”. Họ chẳng ở đâu xa. Họ ngay quanh chúng ta. Họ có thể đang là Thầy ta. Cũng có thể đang là bạn ta. Và ngay chúng ta, cũng đôi lúc có thể là như thế, với họ.     
Đó là những phút giây chúng ta niệm Phật đạt tới nhất tâm bất loạn thì chính khi đó tâm chúng ta trở thành giống như tâm của các bậc thiện nhân. Đơn giản thế thôi, nên kinh A Di Đà mới dạy “ Nhược hữu nhân dĩ phát nguyện, kim phát nguyện, đương phát nguyện, dục sanh A Di Đà Phật quốc giả, thị chư nhân đẳng giai đắc bất thối chuyển ư a-nậu-đa-la-tam-miệu-tam bồ-đề, ư bỉ quốc độ nhược dĩ sanh, nhược kim sanh, nhược đương sanh”, ý nói là, ngay khi hành giả chí tâm phát lời nguyện sanh về thế giới Cực Lạc là lập tức đã sanh rồi, chứ không can chi hoàn cảnh khi ấy là hành giả sẽ sanh, đang sanh hay đã sanh. Ở đây, phải hiểu đã sanh rồi là nở sẵn được đóa sen trên cõi Cực Lạc. Đóa sen đó chờ ngày hành giả về với Phật. Nó tăng trưởng tốt tươi hay lụi tàn héo úa là do thời gian còn ở Ta-bà, hành giả có tiếp tục tu hành tinh tấn hay không.
Sáng tạo của sự phát bồ-đề-tâm mầu nhiệm như thế nên suốt khóa tu niệm Phật chín ngày vừa qua tại chùa Phật Tổ tỉnh Long Beach đã đem lại biết bao hạnh phúc cho hàng trăm Phật tử xa gần về tham dự.
Khóa tu chín ngày liên tục, từ 20 tháng 12 tới 28 tháng 12 năm 2008, mỗi ngày ba thời tụng kinh, niệm Phật, kinh hành, thuyết pháp và pháp đàm, từ tám giờ sáng đến 8 giờ tối.              
Đặc biệt, chiều thứ bảy 27 tháng 12, nhị vị Đại Đức Thường Tín và Thường Chơn đã chỉ dẫn Phật tử cách thức Tam Bộ Nhất Bái. Và đúng sáu giờ chiều, sau hai ngày mưa to gió lớn vẫn không làm chùn bước chân bao người con Phật, thì đất trời đành êm ả, bình lặng, yểm trợ đoàn Phật tử nối theo nhau trong trật tự và chánh niệm. Tiếng niệm Phật vang lên theo nhip khánh của quý thầy hướng dẫn, cứ ba bước, đoàn người lại đồng loạt, năm vóc sát đất, quỳ xuống nền sân xi măng, kính cẩn, lạy một lạy.    
Từng bước, từng lạy, hẳn là trong tâm mỗi hành giả đều rưng rưng hình ảnh đại lão hòa thượng Hư Vân, người đã báo hiếu cha mẹ bằng lời phát nguyện ba bước lạy một lạy, khởi từ hướng đông, núi Phổ Đà tới hướng bắc, núi Ngũ Đài. Suốt thời gian thực hành hạnh nguyện, chỉ trừ khi qua sông lội suối hay bão tố không thể cất bước, ngoài ra, ngài không hề ngưng nghỉ. Vậy mà, cũng hơn ba năm ròng rã ngài mới tới được chùa Hiển Thông trên núi Ngũ Đài.
 Đoàn Phật tử phát nguyện lạy Tam Bộ Nhất Bái, tuy chỉ đi vòng quanh bên ngoài khuôn viên chùa Phật Tổ, nhưng tấm lòng cung kính cúng dường thì mênh mông vô hạn. Chẳng thế mà sau Tam Bộ Nhất Bái, hàng trăm Phật tử lại tham dự Hội Hoa Đăng, mỗi người nhận một ngọn nến lung linh thắp trong đóa sen bằng thủy tinh, rồi cùng kinh hành niệm Phật quanh chánh điện. Ánh nến tỏa sáng theo từng bước chân, nhắc nhở ánh Vô Lượng Quang, nếu ta luôn giữ tâm chánh niệm. 
Cao điểm của lòng thành dũng mãnh là Chư Tôn Đức, Tăng, Ni  và đại chúng đã thực hiện lời phát nguyện niệm Phật suốt đêm thứ bảy để cầu nguyện cho nền hòa bình và an lạc của một thế giới đang chìm đắm trong quá nhiều tai ương, thảm họa do cả từ thiên tai lẫn nhân tạo.
Trăng khuya nghiêng xuống nghe kinh có phải là vầng trăng Lăng Già từng lơ lửng trên cổng tam quan tháng tám" Và cho tới hửng đông, tiếng niệm Phật vẫn âm vang có phải là hồi-chuông-thức-chúng, tới những ai còn say ngủ trong vô thường mộng ảo"
Với bao nhiêu tâm thành khẩn thiết như vậy, khóa tu niệm Phật chín ngày tại chùa Phật Tổ tỉnh Long Beach để hoàn thành món quà đẹp đẽ, dâng lên cúng dường lễ vía Đức Phật A Di Đà, cũng đã đồng thời chứng minh văn kinh: “TỊNH ĐỘ NGAY NƠI TÂM TỊNH”
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
 Hạnh Chi
(Độc-Cư-Am, những ngày cuối năm 2008)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Năm 1895, Alfred Nobel – nhà khoa học bị ám ảnh bởi cái giá mà nhân loại phải trả từ phát minh của mình – đã để lại di chúc năm 1895 rằng tài sản của ông sẽ dùng để tài trợ các giải thưởng “mang lại lợi ích lớn nhất cho nhân loại.” Đối với Nobel Hòa Bình, ông có phần đặc biệt: giải thưởng này sẽ được trao cho người đã “có nhiều hành động hoặc nỗ lực mang đến sự đoàn kết, hòa bình giữa các quốc gia, bãi bỏ hoặc giảm bớt quân đội thường trực, tổ chức và thúc đẩy các hội nghị hòa bình.” Sứ mệnh chọn lựa được giao cho Quốc Hội Na Uy, có lẽ vì ông tin rằng Na Uy – khi đó còn nhỏ bé và trung lập – sẽ ít bị cám dỗ bởi chính trị quyền lực.
Trung Hoa ngày nay như kinh thành giữa sa mạc, vẻ yên ổn bên ngoài chỉ là lớp sơn son thếp vàng phủ lên nền đá đã rạn. Thế giới đứng ngoài quan sát, vừa lo nó sụp, vừa biết nó trụ lại nhờ ảo ảnh quyền lực và niềm tin vay mượn. Dưới lớp hào nhoáng của “Giấc mộng Trung Hoa” là một cơ đồ quyền lực đang già nua trong chính tuổi trẻ của mình. Bởi sức mạnh của nó không khởi từ niềm tin, mà từ nỗi sợ — và nỗi sợ, tự thuở khai triều lập quốc, chưa bao giờ là nền tảng lâu bền.
Ngày 8 tháng 10 năm 2025, tại tòa án liên bang ở Alexandria, bang Virginia, cựu Giám đốc Cơ quan Điều tra Liên bang (FBI) James Comey không nhận tội đối với hai cáo buộc hình sự. Cáo trạng nêu rằng vào tháng 9 năm 2020, Comey đã nói dối Quốc Hội khi vẫn giữ nguyên lời khai trong buổi điều trần trước đó rằng ông không hề cho phép để lộ thông tin về cuộc điều tra của FBI liên quan đến Hillary Clinton. Theo nhiều bình luận gia pháp lý, từ cánh tả đến cánh hữu, việc truy tố Comey chủ yếu chỉ là do chính phủ liên bang đang cố tình nhắm vào kẻ mà Tổng thống “thấy không vừa mắt.” Comey là người đứng đầu cuộc điều tra nghi án Nga can thiệp bầu cử tổng thống 2016 và bị Trump lột chức vào năm 2017.
Sau sáu ngày đột ngột “bặt tiếng,” chương trình Jimmy Kimmel Live, của MC kiêm diễn viên hài và nhà biên kịch nổi tiếng, đã trở lại với khán thính giả vào tối 23/9/2025. Sự trở lại này, chỉ vỏn vẹn sau gần một tuần bị đình chỉ, không chỉ là tin vui với những người yêu tiếng cười đêm khuya của truyền hình Mỹ, mà còn là một hồi chuông cảnh tỉnh, kéo theo những bàn luận trái chiều, chạm đến cốt lõi của tự do ngôn luận, một trong những quyền thiêng liêng nhất trong thể chế dân chủ.
Texas, mùa thu 2025 – trên khuôn viên đại học giữa vùng đất vốn tự hào là “trái tim bảo thủ của nước Mỹ”, thay vì nghe tiếng lá thu rơi, người ta lại nghe tiếng giày đinh vang vọng, bước chân của bóng ma McCarthyism quay về - phiên bản thế kỷ 21 - trở lại giảng đường với tốc độ và sự kinh dị của thời đại kỹ thuật số. Ngày 9 tháng 9, trên bục giảng của trường Texas A&M University, giáo sư Melissa McCoul trong giờ văn học thiếu nhi, dùng hình một con kỳ lân tím để nói với sinh viên rằng bản sắc con người không chỉ có hai nửa nam–nữ. Một sinh viên giơ tay hỏi: “Điều này có hợp pháp không?” và viện dẫn sắc lệnh mà Tổng thống Donald Trump ký hồi tháng Giêng, tuyên bố chỉ có hai giới tính sinh học. Bà McCoul đáp bằng lý lẽ, không viện dẫn chính trị. Nhưng một chiếc điện thoại trong lớp đã ngầm quay lại hình ảnh. Và chỉ ít lâu sau, cả nước đều xem đoạn clip ấy – không phải để học, mà để phán xét.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi thể chế, phương Tây và Việt Nam đang phải đối diện trước những thách thức nghiêm trọng về cải cách chính sách để cho phù hợp với nhu cầu của thời đại mới, nhất là vai trò của pháp luật. Pháp luật là nền tảng thiết yếu cho sự vận hành ổn định và công bằng của xã hội. Là hệ thống quy phạm điều chỉnh hành vi con người, pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân và tập thể mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững. Trong xã hội hiện đại, vai trò của pháp luật được thể hiện rõ nét qua các lĩnh vực như bảo vệ an ninh quốc phòng, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm quyền tự do cá nhân, phát triển phúc lợi xã hội, và thúc đẩy tinh thần hợp tác cũng như hội nhập.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Quantico, Virginia, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth bước lên sân khấu trước hàng trăm tướng và đô đốc được triệu tập từ khắp nơi trên thế giới. Ông tuyên bố sẽ “cải tổ văn hóa quân đội” bằng mười chỉ thị mới, nhằm quét sạch cái mà ông gọi là “rác rưởi thức tỉnh” và khôi phục “tinh thần chiến binh”. Cụm từ ấy – nửa ca tụng bạo lực, nửa tán dương cơ bắp – nay đã trở thành thương hiệu chính trị của Hegseth. Trong cuốn Cuộc Chiến Chống Lại Những Chiến Binh (2024), ông cho rằng việc phụ nữ được đưa vào các vai trò chiến đấu đã “làm cạn kiệt” tinh thần này, khiến quân đội Hoa Kỳ “ít sát thương hơn.” Nghe qua, người ta tưởng quân đội chỉ tồn tại để đong máu đếm xác.
Ông bà xưa đã nói, nắm thì “nắm kẻ có tóc ai nắm kẻ trọc đầu.” Cách nói dân gian này rất cụ thể và dễ hình dung, người có tóc thì dễ bị nắm, bị túm, còn người trọc đầu thì không thể nắm được. Mang câu nói này vào chính trường Mỹ hiện tại, quả là khôi hài, nhưng không kém màu bi kịch. Nó phản ánh một sự thật trần trụi và không thể tránh khỏi: Quyền lực, chính sách, sắc lệnh hành pháp, các cuộc chiến pháp lý và ‘tuổi thọ’ chính trị của người đứng đầu nhánh hành pháp đang phụ thuộc vào sự phục tùng của các nhà lãnh đạo và những tài phiệt. Họ là ai? Họ là một mạng lưới của các quan chức, nhà lập pháp, giám đốc điều hành truyền thông, nhà tài trợ…, những người đã chọn chọ họ một thế đứng, xuôi theo những gì tổng thống muốn.
Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đang đánh một đòn nguy hiểm: huy động các văn phòng công tố đi điều tra mạng lưới từ thiện Open Society Foundations của gia đình Soros, một quỹ từ thiện quốc tế, nổi tiếng với việc tài trợ cho các dự án dân chủ, giáo dục và nhân quyền trên khắp thế giới. Danh sách cáo buộc nghe cứ như “vật lạ”: từ đốt phá đến tài trợ khủng bố. Open Society Foundations lập tức phản đối, khẳng định mình hoạt động hợp pháp, và nhắc lại điều mà bất cứ người tỉnh táo nào cũng hiểu: khi chính quyền có thể tùy tiện lấy một nhóm dân sự làm vật tế, thì quyền của mọi nhóm khác cũng chẳng còn gì bảo đảm.
Trong nhiều thập niên qua, giải pháp hai nhà nước luôn được xem là phương án khả thi nhằm mang lại hòa bình cho khu vực Trung Đông. Tuy nhiên, tiến trình này vẫn chưa đạt được kết quả cụ thể. Gần đây, cuộc tranh luận về việc công nhận nhà nước Palestine đang có những chuyển biến mới khi Pháp và Ả Rập Xê Út tổ chức một hội nghị quốc tế tại New York, ngay trước thềm Đại hội thường niên của Liên Hiệp Quốc.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.