Hôm nay,  

Đất Hứa: Gaza Ngập Khói Lửa

06/01/200900:00:00(Xem: 7891)

Đất Hứa: Gaza Ngập Khói Lửa
Phái đoàn dân cử California đang quan sát biên giới giữa Do Thái và Gaza tại Sderot.


Lê Minh


Chiến sự trên giải đất Gaza đang dẫn đầu tin tức thế giới trong tuần qua. Phái đoàn dân cử California trong đó có Dân biểu Trần Thái Văn đã đến thăm địa đầu giới tuyến Gaza khoảng trước một tuần trước khi cuộc chiến bùng nổ. Vì tình hình biến đổi mau chóng, người viết tạm ngừng tường thuật chuyến đi Jeruralem và  những vùng khác để chú trọng đến giải đất Gaza, hầu giúp đọc giả biết thêm về chiến tranh giữa người  Do Thái và khối Á Rập qua cuộc chiến với dân quân Hamas  (proxy war) và sự tranh chấp giữa người Palestine qua đại diện 2 đảng Fatah và Hamas đã  khơi động chiến tranh  trên giải đất Gaza.
Đầu thế kỷ thứ 19, dân Do Thái bắt đầu trở về quê hương. Từ năm 1904 đến 1914, có hơn 40,000 người Do Thái gốc Orthodox, bảo thủ định cư trên đất Palestine. Theo thánh kinh, họ đã quay trở về giải đất hứa.
Trong Thế chiến thứ nhất, Anh quốc trị vị vùng này, đồng ý  tán trợ  thành lập nước Do Thái. Khối Á Rập trong khu vực phản đối ý định này, đưa đến hậu quả người Palestine nổi dậy chống Do Thái tại Thành phố Jerusalem và vùng Galilee.
Năm 1947, Liên Hiệp quốc thành lập 2 quốc gia trên đất Palestine, một dành cho  người Do Thái, phần còn lại dành cho người Á Rập.
Ngày 14 tháng 5, năm 1948, Do Thái tuyên bố chính thức trở thành quốc gia độc lập. Bốn nước Ai Cập, Jordan, Syria, và Lebanon đã  chống lại và cùng gây chiến với Do Thái. Sau nhiều năm chiến tranh,  một cuộc ngưng chiến đã được thỏa thuận, Jordan nới rộng biên giới qua vùng West Bank và phía Đông Jerusalem, Ai Cập chiếm đóng vùng Gaza.
Ngày 11 tháng 5, năm 1949, Do Thái trở thành một thành viên Liên Hiệp Quốc. Trong  những năm chiến tranh, Liên Hiệp quốc ước lượng có khoảng hơn 1 triệu dân Palestine và Á Rập rời bỏ đất Do Thái và Palestine để tránh chiến tranh.
Nhiều năm nay, từ những trại tỵ nạn từ các nước láng giềng Á Rập, người Palestine đang trở về  sống trên mảnh đất cũ là một trong nhiều nguyên nhân cho sự xung đột hiện nay.
Trong những năm đầu thập niên 1950, Do thái hồi hương hơn 800,000 nạn nhân trong chiến dịch diệt  chủng của Đức Quốc Xã  từ các quốc gia Âu Châu, đã đưa dân số Do Thái lên đến 2 triệu người vào năm 1958.  Tiếp theo sau, hàng triệu người Do thái gốc Nga, hàng trăm ngàn Do Thái gốc Ethiopie và Á Châu trở về đã đưa dân số Do Thái lên gần 7 triệu dân trong một khu vực nhỏ bé.
Cùng thời gian này, Do Thái thường tấn công những  nhóm người  Palestine trên giải Gaza và đưa dân Do Thái định cư trong những vùng đất hứa trong thánh kinh.
Năm 1956, Do Thái thỏa hiệp mật với Anh và Pháp, chiếm kinh đào Suez và  bán đảo Sinai. Tuy nhiên trước áp lực của  Hoa Kỳ và Nga Sô, Do Thái đã phải rút lui khỏi 2 địa  này với  sự bảo đảm  tầu bè Do Thái được lưu thông tự do trên kinh đào này.
Khối Á Rập tiếp tục chống phá và không công nhận sự hiện hữu của Do Thái. Trong thập niên 1960, Do Thái  cho xây cấp một đập nước để lấy nước từ sông Jordan chẩy qua đất Do Thái thiết lập một hệ thống  dẫn thủy nhập điền cho những  vùng đất sa mạc Do Thái.
Jordan  phá kế hoạch này bằng cách cho cho xây một đập nước khác trên thượng nguồn của đập nước Do Thái đang xây, dẫn nước sông Jordan qua một hướng khác, đã đưa đến cuộc chiến 6 ngày năm 1967 giữa Do Thái và  khối Á Rập gồm Ai Cập, Jordan,  Syria. Các quốc gia  Iraq, Saudi Arabia, Sudan, Tunisia, Marocco,  Algeria đã tài trợ và đem quân qua giúp đánh Do Thái. 
Sửa soạn cho cuộc chiến chống Do Thái, Ai Cập muốn lãnh đạo khối Á Rập, yêu cầu quân đội Liên Hiệp Quốc rút ra khỏi bán đảo Sinai,  phong tỏa kinh đào Suez, cấm tầu Do Thái đi qua vùng này và sửa soạn hơn 1,000 xe tăng và  100,000  lính vào bán đảo ở Sinai để tấn công Do Thái.
Về phía Đông,  Jordan ký thỏa hiệp đồng minh, nhập cuộc  với Ai Cập tấn công phía Tây Jerusalem, và thành phố Netanya sát biển Địa Trung Hải  nhằm cắt đôi Do Thái. Kế hoạch này sẽ giúp cho Lebanon và  Syria dễ dàng tiến chiếm  miền Bắc, vùng Galilee và thành phố hải cảng Haifa thuộc phía Bắc Do Thái. Quân Jordan sẽ mở mặt trận đánh vào Tel Aviv từ hướng Bắc và  chiến xa của Ai Cập sẽ dầy nát Tel Aviv từ phía Nam.
Những ngày đầu cuộc chiến 6 ngày, quân đội Do Thái dưới  quyền điều khiển của Tướng độc nhãn Moshe Dayan đã  dùng những chiến đấu cơ Mirage của Pháp đánh bất ngờ, phá tan hệ thống phòng không và phá hủy hơn 400 máy bay  của Ai Cập,  hằng trăm máy bay của Jordan và Syria.  Do Thái trở thành bá chủ không gian, tha hồ bắn phá các đoàn quân Ai Cập và Jordan. Do Thái đem quân đánh bọc hậu,  đưa quân chiếm đóng bán đảo Sinai của Ai Cập, cắt đứt nguồn tiếp nhiên liệu hàng ngàn xe tăng ,binh sĩ đang tiến về Do Thái.
Tổng thống Anwar Sadat của Ai Cập buộc  phải  nhanh chóng ký hòa ước với Do Thái để bảo vệ sự sinh mạng cho binh lính và đội ngũ xe tăng Ai Cập.  Do Thái đồng ý trao trả  vùng Sinai của Ai Cập, nhưng tái chiếm giải đất Gaza, chiếm lại vùng West Bank  phía Đông Jerusalem của Jordan.
Sau khi ký thỏa hiệp hoà bình với Ai Cập và Jordan, Do Thái đánh bật quân Syria ra khỏi vùng  đất  Golan Heights và chiến giữ vùng này cho đến ngày nay.
Sau cuộc chiến,  chính quyền Do Thái đuổi các sắc dân không phải là Do Thái ra khỏi phía Đông Jerusalem và các  vùng họ chiếm đóng, dân Palestine và Á Rập phải lánh nạn qua 4 nước Á Rập lân cận. 
Trước áp lực của Hoa Kỳ và thế giới, và sự mệt mỏi chiến tranh của người Do Thái, chính quyền Tel Aviv đồng ý  trao trả một phần giải đất West Bank và Gaza cho người Palestine để đánh đổi nền hòa bình cho Do Thái. Tuy nhiên giải đất này  vẫn chưa ổn định  vì  cuộc nội chiến  dành quyền lực giữa hai đảng Fatah và Hamas trên giải đất Gaza và sự không công nhân Do Thái của đảng Hamas.
Gaza là một giải đất nhỏ, nằm sát  biển Địa Trung Hải, ráp ranh giới Ai Cập. có chiều dài khoảng 41 cây số,  chiều ngang từ 6 đến 12 kilomet. Diện tích khoảng 360 cây số vuông với khoảng 1.5 triệu dân, đa số là Á Rập và Palestine.
Giải đất Gaza chưa được công nhận là một quốc gia, nhưng thuộc quyền quản trị của người Palestine. Do Thái vẫn còn kiểm soát không lưu và hải phận  vùng Gaza, mọi xuất nhập hàng hoá trên giải Gaza bị giới hạn bởi chính quyền Do Thái để tránh Hamas đưa vũ khí vào chống Do Thái.
Sau cái chết của Yasser Arafat ,nhà lãnh tụ lâu năm của Phong Trào Giải Phóng Palestime (PLO) vào năm 2004, cuộc tranh chấp giữa Fatah và Hamas bùng nổ ngày một lớn đi đến việc thanh toán nội bộ và thường xẩy ra trên giải đất Gaza.
Đảng Hamas tiếp tục không công nhận sự hiện hữu của Do Thái, nhận được sự tài trợ ngấm ngầm từ Syria, Iran và nhiều quốc gia Hồi giáo. Đảng Hamas  có ngân sách, thực hiện được nhiều  chương trình giáo dục, trợ giúp xã hội cho người dân trong vùng và đã được dân chúng ủng hộ. Đảng Hamas đã chiếm đa số trong quốc hội Palestine và kiểm soát toàn thể giải đất Gaza vào năm 2006.


Sự chiến thắng của Hamas, cũng như tranh chấp giữa các nhà lãnh đạo Palestine đã khiến cho Hoa Kỳ, Do Thái và nhiều quốc gia Tây phương ngưng  trợ cấp, giúp đỡ người Palestine trên đất Gaza cho đến khi  đảng Hamas nhìn nhận nước Do Thái, hòa giải với đảng Fatah và từ bỏ bạo động.  Hamas đã bị nhiều quốc gia tiền tiến ghi danh vào danh sách quốc gia tán trợ khủng bố.
Mặt khác đảng Fatah dưới quyền Tổng thống  Mahmoud Abbas,  được Hoa Kỳ yểm trợ, họ đã hoà giải với Do Thái, nên vùng West  Bank tạm ổn về mặt an ninh cho đến ngày nay.
Đoàn chúng tôi rời khách sạn từ sớm để lên đường thăm Beir Shemesh,  một thị trấn nhỏ sát lằn  ranh giới giữa  lãnh thổ  Do Thái và giải đất Gaza.
Trên đường đi, người hướng dẫn dẫn cho chúng tôi biết  Beir Shemesh bất ổn, có thể bị pháo kích và bắn hoả tiễn bất ngờ.  Anh đã dặn mọi  khi nghe còi báo động, phải ra khỏi xe bus, tìm chỗ trú ẩn trong những nhà chống lại được bom đạn thiết lập dọc 2 bên đường.
Chúng tôi đến thăm một trường học  kiểu mẫu  được gọi là PACT (Parent and Children Together) giúp cho phụ huynh và học sinh Do Thái thuộc gốc Ethiopia,   mới định cư tại Do Thái.
Trường học được rào kín, cổng trường luôn khóa và có nhân viên an ninh canh gác như một trại lính. Trường được tài trợ bởi Tổ chức The Jewish Federation tại Los Angeles,  trang bị dụng cụ khá đầy đủ và tối tân, là một đặc điểm để giữ gia đình học sinh ở lại vùng mất an ninh.
Ông hiệu trưởng  chỉ cho chúng tôi biết, mái nhà được thiết trí đặc biệt có thể chống lại đạn pháo kích. Học sinh được luyện tập thường xuyên  để biết ẩn núp khi có pháo kích. Dấu viết  bom đạn còn in dấu tại một số địa điểm trong trường.
Dân biểu Michael Eytan thuộc đảng Lekuh tiếp chúng tôi tas.i trương học. Ông trình bầy tổng quát tình hình an ninh  trong vùng. Đảng Lekud là một trong những chánh  đảng chiếm nhiều ghế tại quốc hội Do Thái, ông đã hy sinh dọn vào sinh sống tại  vùng địa đầu giới tuyến, một phần để trấn an dân chúng trong thị trấn Beir Shemesh, một phần thu hút dân chúng tạo ảnh  hưởng chính trị cho đảng Lekud, đang có triển vọng thắng thế trong cuộc bầu cử quốc hội đặc biệt vào ngày 10 tháng 2, năm 2009 (Chúng tôi sẽ bàn đến hệ thống chính trị phức tạp của Do Thái trong những bài kế tiếp).
Chúng tôi ăn trưa tại một thị trấn nhỏ Sderot,  địa điểm này cách biên giới vùng đất Gaza khoảng 1  dặm Anh.   Hình ảnh  trai, gái tuổi từ 19 đến dưới 30 trong bộ binh phục, súng AR 15 trên tay, đi  lại tràn ngập phố xá  trong giờ ăn trưa, người ta có thể mường tượng ra không khí chiến tranh có thể xẩy ra bất cứ giờ phút nào.
Do Thái có chính sách  cưỡng bách quân dịch. Các thanh niên thanh nữ thi hành quân dịch sau khi tốt nghiệp trung học. Thanh niên buộc phải  vào quân đội 3 năm, thanh nữ  18 tháng và họ có thể bị gọi trở lại quân đội theo nhu cầu an ninh của Do Thái.
Tuy nhiên,  chính quyền Do Thái tạo ra một số biệt lệ, thanh niên, thanh nữ  theo đạo Do Thái Orthodox , không buộc phải đi lính nếu họ không muốn . Thanh niên Do Thái gốc Á Rập không được gia nhập quân đội vì những  nghi ngại về nguồn gốc và sự trung thành của họ đối với Do Thái.
Thiếu tá  Avi Keleho, cố vấn cho Chỉ Huy Trưởng vùng đất  phía Nam ráp ranh giới Gaza, giúp chúng hiểu biết thêm về những sôi động trong vùng. Cứ khoảng vài ngày quân Hamas lại pháo kích qua vùng này, gây bất ổn cho cả vùng.
Chúng tôi được phép đến sát hàng rào biên giới tại vùng Sderot có thể nhìn thấy các cao ốc trên giải đất Gaza. Chính quyền  địa phương đã lập lên 2 hàng rào song song biên giới Gaza. Khoảng chính giữa chừng 500 thước là vùng đất trái độn, Do Thái có thể oanh kích tự do khi có sự xâm nhập từ Gaza. Trên không gian, nhiều khinh khí cầu cố định,  trtang bị hệ thống quay phim ngày đêm, phát hiện  được mọi di động trong vùng biên giới.
Trước đây nhóm dân Hamas thường chui ra từ các đường hầm, bắn  súng cối  và hoả tiễn qua đất Do Thái. Ngày nay Hamas nhận được  trang bị hoả tiễn có tầm bắn xa, nên Hamas có thể bắn phá Do Thái từ  những nơi đông dân cư Palestime, khiến Do Thái bó bay khó trả đũa được.
Trước tình thế bất ổn thường xuyên tại biên giới Gaza, Do Thái đã sửa soạn dư luận thế giới, tố cáo Hamas gây hấn. Hoa kỳ  đồng quan điểm vơ;i Do Thái, nhiều lần lên tiếng chống lại những vục pháo kích làm bất ổn nền an ninh Trung đông. 
Trên đường trở lại Jerusalem, chúng tôi đã nhìn thấy nhiều đoàn xe chở hàng loạt xe tăng về phía Nam, không mấy ai biết Do Thái đang sửa soạn cuộc chiến Gaza.
Những ngày cuối năm 2008, Do Thái chính thức khai chiến với Hamas, họ đã đưa máy bay, xe tăng,  tầu chiến và  bộ binh đã tiến vào Gaza, chia cắt vùng này làm đôi. Quân đội Hamas chỉ có súng cối, hoả tiễn cá nhân và mìn tự sát trong tay.
Trong vài ngay qua, quân đội Do Thái hoàn toàn làm chủ tình thế. Người ta tin rằng sẽ có nhiều cuộc cận chiến, từ nhà này qua nhà nọ trong giải  đất Gaza. Chính sách chiến tranh  cố hữu của Do Thái không ngừng ở giữa chừng để thương thuyết.
Nhiều quốc gia Âu Châu và Nga Sô đã kêu  gọi đôi bên ngừng chiến. Lập trường  Hoa Kỳ không thay đổi và đã ngăn chặn đưa vấn đề ngưng  chiến trước Hội đồng Liên Hiệp Quốc giữa những nước có quyền phủ quyết.
Hoa Kỳ tiếp tục tố cáo Hamas đã gây ra cuộc chiến và làm ngơ cho quân Do Thái tiến sâu vào Gaza. Do Thái tuyên bố rằng họ không có ý định lập đổ, hoặc thay thế các lãnh tụ Hamas.  Họ chỉ muốn kiểm soát  được vùng này để Do Thái không còn bị pháo kích.
Mặt khác, tin chiến sự những ngày đầu, lãnh tụ Palestine, ông Nizar Rayan, hai vợ và 4 người con đã   bị quả bom 2000 cân Anh giết  chết. Do Thái có hệ thống tình báo trên đất Gaza rất hữu hiệu, các lãnh tụ Hamas khác phải  di chuyển  thường xuyên và trốn trong hầm sâu để tránh bị điềm chỉ và bị dội bom.  Quân Do Thái đã chiếm những địa điểm chiếm  trên các cao ốc về phiá Bắc Gaza. 
Tin giờ chót, Hoa Kỳ đã đồng ý hợp tác trong việc tạm hưu chiến. Tuy nhiên Do Thái chỉ ngưng tấn công vào Gaza khi dân quân Hamas buông súng, nhìn nhận sự hiện hữu của Do Thái và  các quốc gia đang  can thiệp vào cuộc chiến Gaza phải bảo đảm cho Do Thái không còn bị pháo kích. Nói một cách khác Hamas phải đầu hàng.
Trong  khi phong trào ủng hộ dân Palestine lên cao  trong quần chúng Hồi giáo tại  Âu châu, một vài  nước trong khối Á Rập lên tiếng phản đối  Do Thái, trong đó có Syria, Iran và Lebanon. Tuy nhiên các quốc gia này vẫn án binh bất động. Trân chiến 6 ngày năm 1967 có lẽ còn in sâu trong tâm trí các nhà lãnh đạo Á Rập, dân quân Hamas  làm quân cờ thí trong cuộc chiến thần thánh chống Do Thái, họ đang chiến đấu lẻ loi trong tuyệt vọng. (Còn tiếp)  

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Năm 1895, Alfred Nobel – nhà khoa học bị ám ảnh bởi cái giá mà nhân loại phải trả từ phát minh của mình – đã để lại di chúc năm 1895 rằng tài sản của ông sẽ dùng để tài trợ các giải thưởng “mang lại lợi ích lớn nhất cho nhân loại.” Đối với Nobel Hòa Bình, ông có phần đặc biệt: giải thưởng này sẽ được trao cho người đã “có nhiều hành động hoặc nỗ lực mang đến sự đoàn kết, hòa bình giữa các quốc gia, bãi bỏ hoặc giảm bớt quân đội thường trực, tổ chức và thúc đẩy các hội nghị hòa bình.” Sứ mệnh chọn lựa được giao cho Quốc Hội Na Uy, có lẽ vì ông tin rằng Na Uy – khi đó còn nhỏ bé và trung lập – sẽ ít bị cám dỗ bởi chính trị quyền lực.
Trung Hoa ngày nay như kinh thành giữa sa mạc, vẻ yên ổn bên ngoài chỉ là lớp sơn son thếp vàng phủ lên nền đá đã rạn. Thế giới đứng ngoài quan sát, vừa lo nó sụp, vừa biết nó trụ lại nhờ ảo ảnh quyền lực và niềm tin vay mượn. Dưới lớp hào nhoáng của “Giấc mộng Trung Hoa” là một cơ đồ quyền lực đang già nua trong chính tuổi trẻ của mình. Bởi sức mạnh của nó không khởi từ niềm tin, mà từ nỗi sợ — và nỗi sợ, tự thuở khai triều lập quốc, chưa bao giờ là nền tảng lâu bền.
Ngày 8 tháng 10 năm 2025, tại tòa án liên bang ở Alexandria, bang Virginia, cựu Giám đốc Cơ quan Điều tra Liên bang (FBI) James Comey không nhận tội đối với hai cáo buộc hình sự. Cáo trạng nêu rằng vào tháng 9 năm 2020, Comey đã nói dối Quốc Hội khi vẫn giữ nguyên lời khai trong buổi điều trần trước đó rằng ông không hề cho phép để lộ thông tin về cuộc điều tra của FBI liên quan đến Hillary Clinton. Theo nhiều bình luận gia pháp lý, từ cánh tả đến cánh hữu, việc truy tố Comey chủ yếu chỉ là do chính phủ liên bang đang cố tình nhắm vào kẻ mà Tổng thống “thấy không vừa mắt.” Comey là người đứng đầu cuộc điều tra nghi án Nga can thiệp bầu cử tổng thống 2016 và bị Trump lột chức vào năm 2017.
Sau sáu ngày đột ngột “bặt tiếng,” chương trình Jimmy Kimmel Live, của MC kiêm diễn viên hài và nhà biên kịch nổi tiếng, đã trở lại với khán thính giả vào tối 23/9/2025. Sự trở lại này, chỉ vỏn vẹn sau gần một tuần bị đình chỉ, không chỉ là tin vui với những người yêu tiếng cười đêm khuya của truyền hình Mỹ, mà còn là một hồi chuông cảnh tỉnh, kéo theo những bàn luận trái chiều, chạm đến cốt lõi của tự do ngôn luận, một trong những quyền thiêng liêng nhất trong thể chế dân chủ.
Texas, mùa thu 2025 – trên khuôn viên đại học giữa vùng đất vốn tự hào là “trái tim bảo thủ của nước Mỹ”, thay vì nghe tiếng lá thu rơi, người ta lại nghe tiếng giày đinh vang vọng, bước chân của bóng ma McCarthyism quay về - phiên bản thế kỷ 21 - trở lại giảng đường với tốc độ và sự kinh dị của thời đại kỹ thuật số. Ngày 9 tháng 9, trên bục giảng của trường Texas A&M University, giáo sư Melissa McCoul trong giờ văn học thiếu nhi, dùng hình một con kỳ lân tím để nói với sinh viên rằng bản sắc con người không chỉ có hai nửa nam–nữ. Một sinh viên giơ tay hỏi: “Điều này có hợp pháp không?” và viện dẫn sắc lệnh mà Tổng thống Donald Trump ký hồi tháng Giêng, tuyên bố chỉ có hai giới tính sinh học. Bà McCoul đáp bằng lý lẽ, không viện dẫn chính trị. Nhưng một chiếc điện thoại trong lớp đã ngầm quay lại hình ảnh. Và chỉ ít lâu sau, cả nước đều xem đoạn clip ấy – không phải để học, mà để phán xét.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi thể chế, phương Tây và Việt Nam đang phải đối diện trước những thách thức nghiêm trọng về cải cách chính sách để cho phù hợp với nhu cầu của thời đại mới, nhất là vai trò của pháp luật. Pháp luật là nền tảng thiết yếu cho sự vận hành ổn định và công bằng của xã hội. Là hệ thống quy phạm điều chỉnh hành vi con người, pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân và tập thể mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững. Trong xã hội hiện đại, vai trò của pháp luật được thể hiện rõ nét qua các lĩnh vực như bảo vệ an ninh quốc phòng, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm quyền tự do cá nhân, phát triển phúc lợi xã hội, và thúc đẩy tinh thần hợp tác cũng như hội nhập.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Quantico, Virginia, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth bước lên sân khấu trước hàng trăm tướng và đô đốc được triệu tập từ khắp nơi trên thế giới. Ông tuyên bố sẽ “cải tổ văn hóa quân đội” bằng mười chỉ thị mới, nhằm quét sạch cái mà ông gọi là “rác rưởi thức tỉnh” và khôi phục “tinh thần chiến binh”. Cụm từ ấy – nửa ca tụng bạo lực, nửa tán dương cơ bắp – nay đã trở thành thương hiệu chính trị của Hegseth. Trong cuốn Cuộc Chiến Chống Lại Những Chiến Binh (2024), ông cho rằng việc phụ nữ được đưa vào các vai trò chiến đấu đã “làm cạn kiệt” tinh thần này, khiến quân đội Hoa Kỳ “ít sát thương hơn.” Nghe qua, người ta tưởng quân đội chỉ tồn tại để đong máu đếm xác.
Ông bà xưa đã nói, nắm thì “nắm kẻ có tóc ai nắm kẻ trọc đầu.” Cách nói dân gian này rất cụ thể và dễ hình dung, người có tóc thì dễ bị nắm, bị túm, còn người trọc đầu thì không thể nắm được. Mang câu nói này vào chính trường Mỹ hiện tại, quả là khôi hài, nhưng không kém màu bi kịch. Nó phản ánh một sự thật trần trụi và không thể tránh khỏi: Quyền lực, chính sách, sắc lệnh hành pháp, các cuộc chiến pháp lý và ‘tuổi thọ’ chính trị của người đứng đầu nhánh hành pháp đang phụ thuộc vào sự phục tùng của các nhà lãnh đạo và những tài phiệt. Họ là ai? Họ là một mạng lưới của các quan chức, nhà lập pháp, giám đốc điều hành truyền thông, nhà tài trợ…, những người đã chọn chọ họ một thế đứng, xuôi theo những gì tổng thống muốn.
Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đang đánh một đòn nguy hiểm: huy động các văn phòng công tố đi điều tra mạng lưới từ thiện Open Society Foundations của gia đình Soros, một quỹ từ thiện quốc tế, nổi tiếng với việc tài trợ cho các dự án dân chủ, giáo dục và nhân quyền trên khắp thế giới. Danh sách cáo buộc nghe cứ như “vật lạ”: từ đốt phá đến tài trợ khủng bố. Open Society Foundations lập tức phản đối, khẳng định mình hoạt động hợp pháp, và nhắc lại điều mà bất cứ người tỉnh táo nào cũng hiểu: khi chính quyền có thể tùy tiện lấy một nhóm dân sự làm vật tế, thì quyền của mọi nhóm khác cũng chẳng còn gì bảo đảm.
Trong nhiều thập niên qua, giải pháp hai nhà nước luôn được xem là phương án khả thi nhằm mang lại hòa bình cho khu vực Trung Đông. Tuy nhiên, tiến trình này vẫn chưa đạt được kết quả cụ thể. Gần đây, cuộc tranh luận về việc công nhận nhà nước Palestine đang có những chuyển biến mới khi Pháp và Ả Rập Xê Út tổ chức một hội nghị quốc tế tại New York, ngay trước thềm Đại hội thường niên của Liên Hiệp Quốc.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.