Hôm nay,  

Bàn Tay Bè Bạn Chìa Ra Đúng Lúc: Mỹ Vào Biển Đông

8/15/201000:00:00(View: 7318)

Bàn Tay Bè Bạn Chìa Ra Đúng Lúc: Mỹ Vào Biển Đông

Bùi Tín
(Viết riêng cho VOA Thứ Sáu, 13 tháng 8 2010)


Chỉ huy tàu khu trục có tên lửa dẫn đường USS John S. McCain bắt tay với một sĩ quan cao cấp của Hải quân Việt Nam sau khi cập cảng Đà Nẵng, ngày 10/8/2010. (Hình: navy.mil )

Quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ đang có những biểu hiện tiến triển nổi bật, được dư luận trong nước bàn tán, báo chí khu vực, châu Á và toàn thế giới bình luận sôi nổi.
Tàu sân bay hạt nhân George Washington, trọng tải 100.000 tấn, với 85 máy bay chiến đấu và 3.200 binh sỹ, trong đó 2.400 thuộc không quân, đậu ngoài khơi Vịnh Bắc Bộ, trong khi khu trục hạm John S.McCain cặp bến Tiên Sa- Quảng Nam ngày 10-8, mở đầu cuộc thăm hữu nghị nhân kỷ niệm 15 năm bình thường hóa quan hệ 2 nước Việt Nam – Hoa Kỳ.
Tàu chiến Hoa Kỳ ghé thăm cảng Việt Nam, từ 2 năm nay không còn là chuyện lạ. Điều mới mẻ là năm nay tàu Hoa Kỳ đến tới tấp, các mối quan hệ cũng có vẻ đậm đà hơn. Đầu năm nay, 2 tàu tuần tiễu cứu hộ Safeguard T-ARS50 và Richard E. Byrd T-AKE4 đã được sửa chữa tại xưởng hải quân Cam Ranh, trong cảng Hòn Khói của Vịnh Văn Phong. Ngay sau đó tàu bệnh viện của hải quân Mỹ Mercy cặp bến Đà Nẵng để khám bệnh, cho thuốc, làm phẫu thuật, chữa mắt cho đồng bào và trẻ em địa phương.
Dịp này phái đoàn hải quân Việt Nam đã lên tàu sân bay George Washington, thăm xã giao và quan sát cuộc thao diễn của nhóm tàu Curtis Wilbur, Chung Hoon và Mc Campbell ở ngoài khơi 200 dặm. Nhân dịp này, 50 sỹ quan trẻ của hải quân Việt Nam đã được tập huấn về kiểm soát thiệt hại trong chiến đấu, tìm kiếm cứu nạn trên biển và trao đổi kỹ năng hoạt động… Bộ chỉ huy của Hạm đội 7 của Hoa Kỳ ra thông cáo ghi nhận sự hợp tác đang phát triển tốt đẹp về quân sự giữa 2 cựu thù nay đã trở thành bạn.
Những sự kiện trên đây diễn ra ngay sau khi bà Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton đến Hà Nội và phát biểu rằng khu vực biển Đông là vùng chiến lược về giao thông quốc tế, quyền lợi của mọi nước cũng như quyền lợi quốc gia của Hoa Kỳ gắn bó với vùng này. Chủ trương của Hoa Kỳ là bảo vệ giao thông quốc tế, không ai đe dọa dùng vũ lực và dùng vũ lực trong khu vực này, các tranh chấp lãnh thổ lãnh hải phải được giải quyết bởi tập thể các nước liên quan theo con đường thương lượng đa phương.
Phần lớn các nước Đông Nam Á tán đồng lập trường mạnh mẽ chính đáng của Hoa Kỳ.
Nhiều tờ báo ở Indonesia, Singapore, Malaysia…lên tiếng bác bỏ yêu sách của Trung Quốc muốn độc chiếm toàn bộ biển Đông rộng hơn 1 triệu kilomét vuông, bác bỏ yêu sách hình lưỡi bò của Trung Quốc, chỉ rõ cái hình lưỡi bò kỳ quặc mang tính chất độc đoán, áp đặt, không có một giá trị pháp lý hay lịch sử nào. Phần lớn các nước Đông Nam Á cũng bác bỏ chủ trương thương lượng song phương của Bắc Kinh, một mưu thâm nhằm bẻ gãy từng chiếc đũa.
Hiện nay theo dõi chặt chẽ tình hình của quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ và Việt Nam – Trung Quốc mọi người Việt Nam yêu nước, quan tâm đến vận mệnh quốc gia mong muốn được biết thái độ của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam lúc này, khi đi gần đến Đại hội XI là thế nào"
Một khả năng là theo tiếp đường mòn của 20 năm nay, kể từ Đại hội VII năm 1991, nhất là từ sau cuộc gặp bí mật cấp cao ở Thành Đô – Trung Quốc là ngả hẳn về Trung Quốc, coi TQ là chỗ dựa lớn nhất của Đảng CS VN, là nhượng bộ các yêu cầu bành trướng của họ, là tình anh em, đồng chí thân thiết theo phương châm 16 chữ vàng và 4 tốt. Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch gọi đây là thời Kỳ «Bắc thuộc mới». Đến nay, sau 20 năm thực hiện đường lối đối ngoại ấy, kết quả là gì" lợi ích gì cho nhân dân, cho dân tộc" Xin mời mọi người Việt Nam ta đánh giá và phát biểu.
Phải chăng kết quả nhãn tiền là đất nước chìm sâu trong lạc hậu, tham nhũng, pháp luật không nghiêm, đạo đức băng hoại từ trong đảng ra xã hội, chế độ độc đảng đối nghịch với quyền dân chủ nên quyền người dân và quyền con người bị chà đạp khắp nơi. Người đồng chí «tốt» phương Bắc gậm nhấm nhiều vùng biên giới, nuốt cả quần đảo Hoàng Sa, chiếm nhiều đảo trong quần đảo Trường Sa, còn cấm đánh cá, bắt, bắn giết ngư dân ta trong vùng biển ta, độc chiếm hàng chục vạn héc-ta rừng để trồng bạch đàn, keo …nhằm phá hại chất đất, còn đưa hàng vạn người của họ vào vùng chiến lược Tây nguyên nhằm khai thác bauxite cho họ… Những hiểm họa kinh khủng ấy chưa đủ để đánh thức Bộ Chính trị ư"
Nếu Bộ Chính trị vì lợi ích riêng tư phe nhóm vẫn làm ngơ trước những lời cảnh tỉnh tâm huyết, thiết tha, nghiêm cách của đông đảo trí thức - kẻ sỹ thời đại, của nhiều đảng viên có công tâm ở cơ sở, của lớp lớp tuổi trẻ thế hệ mới am hiểu tình hình nước ta và thế giới, thì việc gì sẽ xảy ra" Chẳng lẽ cả 85 triệu đồng bào ta đều bị bắt làm con tin cho một đường lối đối ngoại cổ lỗ, sai lầm, ích kỷ, tội lỗi tày đình như vậy, suốt 20 năm rồi, và còn bao lâu nữa hay sao"


Có một đường lối đối ngoại khác, thông minh, khôn khéo, là từ chính tự đất nước mình đổi mới trước, đổi hẳn từ hệ thống độc đảng, độc quyền đảng trị sang hệ thống dân chủ đa đảng trong trật tự luật pháp, như phần lớn các nước dân chủ trên thế giới, với tự do đầy đủ cho mọi công dân, tự do báo chí, tự do lập hội, tự do bầu cử cho toàn xã hội, hãy bắt đầu như ngay các nước bạn Đông Nam Á gần ta, như Philippines, Indonesia, Malaysia…, hoặc xa hơn là Đài Loan, Nam Triều Tiên. Họ thành «rồng», thành «hổ» là do vĩnh biệt chế độ độc đảng hay quân phiệt, như các chế độ Tưởng Giới Thạch, Pác Chung Hy, Marcos, Suharto…, chưa nói đến các chế độ dân chủ thuần thục, tại đó an sinh xã hội, y tế công cộng, giáo dục từ vườn trẻ đến đại học, cao học đều đạt những đỉnh cao nhất của thế giới...
Từ đổi mới chế độ trong nước như thế sẽ tất nhiên dẫn đến đường lối đối ngoại kết bạn với mọi nước dân chủ, càng dân chủ bao nhiêu càng là bạn thân thiết bấy nhiêu. Hoàn toàn không phải là ta theo Mỹ vì Mỹ giàu, mạnh. Ta thân, kết bạn, liên minh với mọi nước dân chủ, như với các nước dân chủ láng giềng Đông Nam Á, châu Á – như Ấn Độ, Nhật Bản, các nước dân chủ trong Liên minh châu Âu, với nước Úc, New Zealand, với Hoa Kỳ, Canada…ở châu Mỹ.
Vị thế của nước ta sẽ thay đổi hẳn. Vị trí ta ở Liên Hợp Quốc sẽ được cải thiện đáng kể.
Sự hợp tác, giúp đỡ, tương trợ của thế giới đối với ta sẽ tăng gấp bội.
Muốn có sự chuyển đổi lịch sử, tuyệt vời như trên cần có một sự lãnh đạo sáng suốt, như thời Minh Trị của Nhật, như tư tưởng Nguyễn Trường Tộ và Phan Châu Trinh, một tư duy trẻ, khoẻ, một bản năng quả đoán, trên hết là lòng thương dân đến xót xa nhỏ lệ, yêu nước đến sẵn sàng xả thân vì nước, vì nghĩa lớn, dẹp hết mọi tham vọng cá nhân về tiền tài, nhà cửa, đất đai, coi tất cả là phù du trước tương lai của Tổ quốc Việt Nam.
Xin được bàn thêm đôi lời cho đủ ý. Với Trung Quốc, xin chớ có lo sợ quá đáng. Họ rộng lớn, đông dân, phát triển mạnh. Nhưng họ có lắm nhược điểm nặng nề. Lòng dân bị kềm kẹp nên không an bình. Vấn đề dân tộc với Tân Cương, Tây Tạng còn tiềm ẩn bất ổn. Vấn đề Pháp Luân Công mà số thành viên vượt quá số đảng viên cộng sản còn dai dẳng. Vụ Thiên An Môn còn hậu quả trong lòng trí thức, học giả, sinh viên, thanh niên. Chênh lệch giữa vùng núi sâu với vùng ven biển là bi đát.
Về kinh tế, chỉ số cơ bản về giá trị sản phẩm theo đầu người của TQ là khoảng US$3.800 /2009, chỉ bằng 1/10 của Hoa Kỳ. Về quân sự, nhất là về hải quân Trung Quốc còn kém rất xa Mỹ.
Cho nên Đặng Tiểu Bình vào năm 1978 đi Mỹ về khuyên rằng phải tận lực phát triển, nhưng trong vòng gần 50 năm phải lặng lẽ khắc phục sự lạc hậu, không được phí sức, huênh hoang. Người Mỹ gọi là phương châm «nín thở qua sông ». Các học giả Mỹ, Đức nhận định phải đến năm 2020 – 2025, TQ mới lớn lên thực sự, có đủ nanh dài vuốt nhọn, thành con hổ nguy hiểm.
Cũng cần hiểu rõ chính sách của Hoa Kỳ đối với Trung Quốc. Các nhà tư duy chiến lược, các think-tank Mỹ cho rằng tuy Trung Quốc đang «nín thở qua sông», nhưng họ vẫn lợi dụng Mỹ vướng chân ở Iraq, Pakistan, Trung Đông, để thách thức, nắn gân Mỹ. Cần nhìn xa, sớm ngăn chặn hiểm họa của những nước cộng sản cũ, vì khi nội bộ khó khăn, họ gây sự với bên ngoài để mỵ dân, dựng lên lòng yêu nước để dẹp loạn bên trong. Cho nên Hoa Kỳ phải cứng cỏi, vững vàng trước mọi thách thức từ Trung Quốc khi nanh vuốt của con hổ ấy còn non yếu, không chờ khi nó có nanh dài vuốt nhọn thì nguy hiểm cho toàn thế giới.
Và Mỹ đang mong muốn kết thêm bạn trên cơ sở cùng chung đối tượng cần cảnh giác và ngăn chặn, cần nhận ra những hiểm họa chung để kết liên minh.
Các chiến hạm hải quân Mỹ tới tấp cặp cảng Việt Nam là những tín hiệu tốt, những thông điệp đẹp. Và rất đúng lúc. Có bạn nào e ngại vì Mỹ đã từng bỏ rơi đồng minh của mình trong lúc hiểm nghèo, xin hãy trấn tĩnh. Mối quan hệ Việt - Mỹ hiện nay hoàn toàn khác 35 năm trước. Hồi ấy có sự đối lập giữa hành pháp và lập pháp, Quốc hội trói tay chính phủ, xã hội phân hóa thành 2 phe chủ chiến và phản chiến. Hiện nay kết bạn ngày càng thân thiết với Việt Nam là một nhu cầu của đồng thuận quốc gia.
Bộ Chính trị hiện nay xem ra còn lưỡng lự, suy tính, những bình luận của báo Nhân dân, báo Quân đội Nhân dân về quan hệ Việt - Mỹ còn tẻ nhạt, chưa có quan chức cao cấp nào của Bộ Tổng tham mưu, Bộ Quốc phòng ra thăm các chiến hạm Mỹ.
Khi có dân chủ thật sự, khi đã kết liên minh với các nước dân chủ khu vực và thế giới, Việt Nam sẽ ở vào tư thế độc lập, bình đẳng với nước lớn láng giềng, buộc họ phải vị nể, không thể lấn lướt hà hiếp nước nhỏ mãi, và ta cũng sẽ biết chung sống hòa bình, không dại gì mà khiêu khích, gây sự với ai nhưng cũng không để ai uy hiếp mình, như ông cha chúng ta đã biết sống như vậy.  ./.
Bùi Tín   
(Tác giả Bùi Tín hiện có trang blog ở đàì VOA: http://www1.voanews.com/vietnamese/news)

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.