Hôm nay,  

Đứa Con

15/09/201000:00:00(Xem: 7580)

Đứa Con                                                       

Mây-cao-Nguyên phóng tác
Ánh nắng của một sáng mùa xuân chiếu xuyên qua cửa sổ. Vài tiếng chim hót líu lo trên cành Anh Đào báo hiệu một ngày đẹp trời sau những tháng mùa đông băng giá. Trong góc của chiếc trường kỷ một con búp bê đôi mắt làm bằng hạt cườm màu đen, sáng bóng, đang nhìn chầm chập về phía trước.
Những chậu hoa cảnh treo lủng lẳng trên thành cửa sổ đang độ nở hoa, những tấm màn cửa làm bằng vải mỏng mịn màng, trong suốt đang phất phơ trong gió. Sách vở bày la liệt trên bàn, nhiều cuốn còn trên những kệ sách chung quanh phòng. Sách đủ loại với những đề tài khác nhau. Về đời sống, sự chết và về tình yêu bằng thơ và bằng văn xuôi. Một tấm vải lụa đang thêu dở với những đường nét sắc sảo, mềm mại như da dẻ của một đứa bé.
Chiếc dương cầm đang mở nắp. Nhạc phẩm được chọn lọc, vừa cổ điển vừa hiện đại mở sẵn nằm tựa trên giá nhạc: của Chopin, Scriabin…
Đứa bé từ ngoài cửa bước vào, băng qua phòng khách, ẵm con búp-bê trên tay và nói lảm nhảm; lục lọi trong đống sách vở trên bàn để tìm cuốn sách hình, chọt ngón tay trên chiếc dương cầm. Đứa bé trông có vẻ tươi mát, khỏe mạnh, với đôi cánh tay và đôi chân trần trụi, rám nắng bởi gió và ánh nắng mặt trời. Đôi mắt trong sáng, đen nhánh, ngây thơ của đứa bé trông thật dễ thương làm sao.
Những người lớn cũng có riêng đời sống của họ. Họ biết được thế đứng của mỗi người. Người đàn bà hết đi ra rồi lại đi vào. Bà tưới cây, dọn dẹp, phủi bụi, thỉnh thoảng bà cầm quyển sách trên tay ngồi đọc, hoặc nhặt tấm vải lụa thêu một vài đường, không bao giờ thêu nhiều. Vì vậy, những tấm vải thêu không bao giờ được hoàn tất. Có những cuốn sách bà chỉ liếc nhanh, chưa từng đọc hết. Chúng nằm im lìm, bà gấp lại và vứt chúng sang một bên.
Bà cảm thấy bồn chồn. Vừa ngồi xuống lại phải đứng dậy để tìm kiếm một việc gì đó để làm hết chỗ này đến chỗ khác; chùi những khung cửa sổ, phủi bụi những mặt bàn, ghế đã bóng lưỡng, bà tự tạo cho mình bận rộn với những công việc không mấy cần thiết. Đôi khi bà hát nho nhỏ. Rồi đưa tay lau những hạt lệ bỗng nhiên đọng trên khóe mắt chảy dài xuống đôi má. Dáng bà thon nhỏ và nước da ngâm ngâm.
Từ dưới bếp bước lên phòng khách với đôi tay còn ướt, khuôn mặt hiện lên nét nôn nóng chờ đợi. Bà chùi vội đôi tay ướt vào chiếc khăn choàng làm bếp và đi nhanh đến chiếc dương cầm. Màn bi kịch theo sau. Những tiết điệu du dương trầm bổng quyện lấy nhau, lúc như van lơn, mời mọc, lúc như sung sướng hạnh phúc vui tươi. Bỗng nhiên, nhạc trở nên cuồng loạn, bà buông đôi tay trên các phím đàn để mặc những âm thanh réo rắc vang động: bà cúi gập người về phía trước, đầu chạm vào các phím đàn, chiếc dương cầm lại vang lên. Những dòng lệ lăn dài giữa những ngón tay thon.
Nhưng bà cũng có thể chơi một khúc nhạc buồn một cách êm dịu; đôi má lấm tấm mồ hôi. Bà đứng dậy và xoay một vòng giữa sàn nhà. Bà nhảy từ mé phòng này đến mé phòng khác, những bước chân êm dịu, nhẹ nhàng như con thú trong chuồng. Luôn luôn đến giờ chót chiếc khăn tay được xử dụng.
Bà nghe đứa con bước vào, lau mặt thật nhanh và thay đổi nét mặt như một nữ tài tử già dặn kinh nghiệm.. Đứa con chạy xổ nhanh, sa đầu vào đôi vòng tay của mẹ nó, khóc hay cười như những đứa trẻ thường làm. Hoặc nó sẽ mang đến cho mẹ nó một bó hoa được kết với đủ loại hoa dại, một vài cành với cuống ngắn ngủn, cành khác với cuống dài thườn thượt không vừa với những lọ cắm hoa, tuy nhiên bà phải đón nhận. Nhìn xem, hoa con hái ở đâu mà đẹp quá vậy"
Lần khác đứa con chạy vào đưa cho bà xem đôi nắm tay dơ bẩn hoặc cái đầu gối dính đầy cát và đang chảy máu. Nó xu"y’t xoa, đau đớn gọi mẹ. Bà phải an ủi, chăm sóc, dỗ dành một cách khó khăn. Chẳng bao lâu đứa bé cười đùa trở lại; nó ngồi trên chiếc trường kỷ và ôm con búp bê vào lòng, với miếng băng keo dán trên vết thương, đang ngồi mút kẹo và xem sách hình. Bà mẹ nói chuyện và cười giỡn với nó, cố làm cho nó quên đau, bà bồng và hôn nó. Hình như đó là một sự tự trách, một sự thông cảm thể hiện ngay trong cử chỉ của bà. Bà hát những đoản khúc trong các nhạc phẩm, kể chuyện cổ tích.
“Ngày xưa, có một người đàn đàn bà nhỏ xíu, nhỏ bằng ngón tay út, bà sống trong một căn nhà cũng nhỏ xíu như hộp diêm…”
Đứa con lắng nghe với đôi mắt chăm chú mở lớn một cách thích thú. Nhưng bỗng nhiên người mẹ mất sợi chỉ may và không tìm thấy. Bà vội vã đặt đứa bé xuống: “Kìa, bây giờ, con chạy ra ngoài chơi trở lại đi. Mẹ con mình không thể ngồi đây suốt cả ngày được”.
Và đứa bé hớn hở chạy đi. Đó là điều luôn luôn xảy ra. Đã xảy ra rất nhiều lần.
Gần tối bà nghe tiếng mở cổng và âm thanh của những bước chân của người đàn ông xào xạc trên con đường lát sỏi. Khuôn mặt bồn chồn của bà lập tức nghiêm trang và căng thẳng.
Bà cử động một cách hối hả chạy đi đóng nắp chiếc dương cầm, dẹp mấy bản nhạc, che dấu những vết tích. Trong khoảnh khắc bà đứng cầm tấm vải thêu trên tay, lưỡng lự, rồi để nó nằm ngay ngắn trên bàn.
Rồi bà bước ra khỏi phòng. Người chồng bước vào.
Ông là một người đàn ông lịch sự, phong nhã, tự tin, ăn mặc chững chạc vừa mới thoáng nhìn. Ông ta cũng là một người vui vẻ và dễ kết bạn, và người chồng muốn có một mái ấm gia đình hạnh phúc, nhưng ngược lại. Ông ta nhìn chung quanh căn phòng với vẻ hồ nghi, bậm môi, và thì thầm một mình.
Đứa bé chạy vào với ông. Nó đang đứng tựa vào chân của ông, khoe những thành tích suốt một ngày của nó. Có thể đó là một con sóc nhỏ xinh xắn. Một vài con bướm đủ màu sắc rực rỡ…..
-À, chúng đẹp quá phải không con"
Người cha ẵm đứa con để nó ngồi trên lòng, nhưng tư tưởng của ông để đâu đâu.
Đứa con đòi hỏi sự chú y’ của ông ta. Nó nhặt cuốn sách hình lên và chỉ vào đó. Người cha nói một cách máy móc: “À, con mèo đẹp quá há. Con chim hoàng anh cũng đẹp nữa”.
Cặp mắt của ông nhìn ra hướng cửa chính, ông lắng nghe. Và đột nhiên ông đặt đứa bé xuống và nhấc điện thoại; ông nhanh nhẹn quay số và đang nói chuyện nửa chừng thì người vợ bước vào.
Ông không nghe thấy bà vợ đến gần, ông vẫn nói và cười một cách thân mật, như một người hoàn toàn bận rộn với bạn bè và những chuyện thích thú của mình. Ngay cả khi ông gát máy điện thoại ông cũng không có vẻ gì để y’ đến bà và vẫn tiếp tục tìm số điện thoại trong cuốn niên giám.
-“Anh mới về"” Bà hỏi nhỏ nhẹ và ngồi xuống.
-“Sao…"”.
Giọng nói của bà thiếu nhẫn nại nhưng hoàn toàn có một sự trông đợi thật trẻ con: bà đang bất mãn. Ông ta nhún vai: “Sao" –À, anh mới về-không có gì đặc biệt cả”.
Bà ta ngồi đó như đang mong ngóng được nghe một vài điều hơn là những sự việc bình thường. Bà luôn luôn chờ đợi chồng của bà nói một vài điều mà ông ta chưa bao giờ nói với bà; suốt cuộc đời làm vợ bà đã chờ đợi. Bà cũng không biết chắc một cách chính xác là bà chờ đợi cái gì, bà chỉ biết đêm nay lại thêm một điều bất mãn khác.
-“Không…” Ông đưa tay làm điệu bộ một cách mơ hồ.


Ngày của ông cũng giống như mọi ngày khác. Không có gì xảy ra cả. Năm ngày làm việc tại văn phòng với những giấy tờ, máy móc. Sau giờ làm ông lái xe thẳng về nhà không la cà đâu hết. Tối về cơm nước xong, xem TV, sách báo hoặc gọi một vài người bạn để chuyện trò tâm sự. Cuộc đời của ông thật là bình dị. Nhưng cái vai trò của ông không giúp giải quyết được vấn đề. Bà vợ vẫn còn ngồi đó, nét bất mãn đang ầm ỉ, một sự bất mãn vu vơ làm cho không khí trở nên ngột ngạt. Bà muốn gì đây"
-“Còn em, sao vậy" Có khỏe trong người không"” ông hỏi một cách nghiêm nghị.
-“Có sao đâu, cám ơn anh” Bà trả lời một cách lạnh lùng.
Để xóa tan bầu không khí ngột ngạt,m ông nhặt tấm vải lụa đang thêu dở cầm trên tay một cách vụng về và nói:
-“Đàn bà của mấy người sao lại có đủ thì giờ và kiên nhẫn để làm những chuyện tào lao như thế này”.
-“Thì giờ! Chúa ơi! Nó nằm đó cả mấy tuần nay rồi: Em ước sao em có đủ thì giờ….”
Bà dừng lại ở đó. Ông nhìn quanh một vòng căn phòng, dừng mắt tại chiếc dương cầm. Chiếc dương cầm đóng nắp, không thấy một bản nhạc nào cả. Nhà cửa thì sạch sẽ, ngăn nắp, bàn ghế thứ tự, bóng láng không có gì để có thể chê trách. Ông muốn bươi móc thêm nhiều điều nữa để có cớ đay nghiến bà, nhưng cuối cùng rồi ông chịu thua.
Ông trở lại tấm vải thêu:
-“Lâu nay anh đâu có thấy nó bao giờ đâu”.
-“Có một hoặc hai điều mà anh không thấy”, bà nói trong khi bà đứng dậy:
-“Thôi, đến giờ ăn rồi”.
Cùng lúc đó bà bật lên cười thật lớn đầy vẻ miệt thị.
-“Hãy nghĩ đến….”, ông dự định nói một điều gì đó, mắt hướng nhìn về đứa con đang ngơ ngác nhìn cha mẹ nó.
-“Em không nghĩ gì khác cả. Nếu em đã nghĩ….”.
-“Nếu em đã nghĩ....” Ông ta nhìn bà một cách khiêu khích.
-“Thôi đừng nói nữa”.
Bà đưa tay dắt đứa bé rời khỏi phòng: “Đi con, hai mẹ con mình đi rửa tay, rồi ăn cơm”.
Bữa cơm chiều hôm nay bày biện một cách khéo léo và trông có vẻ thịnh soạn. Cá mòi chiên, khoai Tây hầm kiểu mới, xà-lách, nửa chai bia và bánh ngọt. Chắc là ngon lắm.
Và đối với ông đang đói bụng chắc phải ngon rồi. Ông nghĩ phải có một cuộc hưu chiến.
-“Đồ ăn ngon quá”, ông nói nịnh vợ.
-“Ngon sao"”, bà hỏi vặn một cách lạnh lùng.
-“Em sung sướng được nghe anh khen”.
Sau đó thì họ nói về đứa con. Một cách máy móc họ nói những điều như những người lớn luôn luôn hỏi những đứa trẻ nít.
-“Suốt ngày con làm những gì"”.
-“Cầm tay phải, con chó!”.
-“Con có đi chơi với mấy đứa trẻ hàng xóm không"”.
-“Con hư quá, vấy thức ăn vào áo quần của mẹ hết rồi! Con không được cầm cái muỗng như vậy- Cầm như thế này, này”.
-“Mấy con gà con nhà kế bên, chúng như thế nào rồi"”.
-“Đừng có ăn khoai tây không. Con phải ăn cho hết cá. Như vậy phải ngoan không”.
Đứa con hết trả lời bên phải rồi lại trả lời bên trái, hài lòng được cha mẹ chú y’ chăm sóc cho mình quá nhiều; nó không hiểu được nó đang ở trong vùng chiến địa nguy hiểm.
Con mèo ăn một con gà con. Con khác được mẹ nó cứu. Nhưng nó bị gãy chân và chắc có lẽ cũng phải chết thôi; họ đã giết con gà con nhỏ xíu dễ thương đó và đem chôn, trên mộ nó có cây thánh giá và một cây thược dược. Và cá thì không được ngon lắm nếu không cảm thấy đói bụng.
Đứa bé giẫy nẫy không chịu ăn thêm cá. Cha mẹ nó lại có cớ để đôi co nhau qua trung gian của đứa bé.
-“Không ăn nữa thì để đó, con chó của ba”.
-“Ăn hết đi con, ngoan mẹ thương”.
-“Có lẽ nhiều quá con ăn không hết, phải không"”.
-“Đừng ngang bướng, con. Giỏi, ăn hết mẹ cho con ăn bánh ngọt”.
Đứa con trả lời nó muốn ăn bánh ngọt, không muốn ăn cá. Nó ngả người trên ghế và vứt mạnh cái muỗng xuống dĩa. Nó không còn ngồi ngay ngắn, tề chỉnh như trước và mẹ nó phải bồng nó xuống cho nó chạy đi chơi mà không cho ăn bánh ngọt.
Nhưng người cha tự đi lấy một miếng bánh ngọt để trước mặt đứa con: “Mình đừng nói một lời nào nữa. Thời tiết quá nóng nực mà mình đòi hỏi quá nhiều. Để yên cho nó”.
Ít nhứt, ông ta đã cư xử với tư cách là chủ nhân của căn nhà này và chứng tỏ quyền làm chồng. Điều này làm ông mãn nguyện.
Đứa con bắt đầu ăn bánh ngọt. Nhưng nó nhìn lấm lét cha mẹ một cách bối rối, thẹn thùng. Một sự y’ thức mập mờ chợt đến trong trí nó chứng tỏ cho nó biết cuộc đời không phải bình dị và êm trôi như nó tưởng.
Cha mẹ nó không còn nói gì nữa.
Màn đêm chợt đến. Đêm về với những hàng cây in rõ rệt, nằm im lìm dưới bầu trời trong xanh và chúng càng rõ nét khi những vì sao xuất hiện. Mùi hương của rơm rạ, hoa xa-trục-thảo và hoa hồng phảng phất đâu đây. Tiếng con dế mèn rả rích bên thềm. Quang cảnh đang quạnh hiu bỗng nhiên vang lên những tấu khúc rộn rã của muôn loại côn trùng, động vật, chim chóc. Tiếng cú kêu đêm đâu đây nghe buồn não nuột.
Trong phòng nơi đặt chiếc dương cầm ngọn đèn được bật sáng. Những con mòng bay va vào mặt gương cửa sổ đang đóng. Xuyên qua một vài cửa sổ hé mở một vài con thấy ánh sáng bay vào nhưng không tìm được lối ra; chúng bay lượn vòng vòng chung quanh chụp đèn điện. Những con thiêu thân thấy ánh sáng tưởng hạnh phúc thiên đường đang va đầu vào cõi chết.
Người chồng đang ngồi đây.
Ông ta bỏ tờ báo sang một bên và đang ngồi nhìn những con thiêu thân. Có giúp chúng cũng vô dụng thôi. Hãy để chúng trì chí cho đến khi tử thần thương xót đến đón chúng đi. Nhưng ông biết chúng cảm thấy như thế nào. Chính ông cũng đã bay vào trong thứ ánh sáng đó một lần và nay đang nhìn hoàn cảnh của những con thiêu thân đang làm mồi cho ánh sáng, ông cảm thấy một nỗi buồn man mác len nhẹ vào hồn. Người ta nghĩ họ đã tìm thấy được một vòng tay ôm ấp áp, một nơi chốn an bình, thú vị để cho tâm hồn ngự trị. Nhưng thay vì người ta đã tìm thấy một sự bất ổn triền miên, một tính khí bất thường, một sự dằn vặt khó hiểu. Âm nhạc ư" Không có lấy một âm điệu. Chiếc dương cầm đang nằm im lìm, mang dấu hiệu miệt thị và một sự tố cáo chống lại ông. Nếu không có sợi dây thiêng liêng đang ràng buộc hai người, đó là đứa con, thì chắc chắn ông đã bỏ bà và ra đi thật xa.
Ông có thể nghe rõ từng bước chân của bà ngoài vườn sau. Ngoài kia bà đang đi đếm nỗi buồn.
Bà cứ đi và đi, viên sỏi mừng đang reo dưới gót chân vang. Thỉnh thoảng bà dừng lại và trầm ngâm suy nghĩ, có rất nhiều tâm sự dằn vặt, ngỗn ngang không nói được mà chồng bà không thể nào đoán cho ra, ông đang ngồi nhấp nhổm trên ghế.
Bà cũng nhìn thấy những con thiêu thân, bà cũng thấy cái hấp dẫn của ánh sáng. Chính bà cũng đã từng cảm thấy đã bay vào những điều mà bà tin tưởng rằng đó là một cuộc phiêu lưu miên viễn, ngây ngất không chấm dứt. Bà đã sa vào vùng ánh sáng với những y’ nghĩa mới mẽ của một điều duy nhất, trước sau như một, là cố đem lại hạnh phúc và sung sướng cho chồng, cha của đứa con trai của bà, người đàn ông xa lạ đang ngồi im lìm, trơ trơ như đá tìm lấy thú vui cho mình mà không quan tâm đến nỗi giận hờn đang nổi loạn trong lòng bà.
Đứa con đang nằm ngủ trên chiếc giường nhỏ. Nó hất tung chiếc khăn trải giường vì nực nội và nằm duỗi tay chưn bụ bẫm, rám nắng, khuôn mặt dễ thương như một đóa hoa tươi. Đứa con đang mơ màng trong giấc điệp, đã quên không còn thấy vết đau nhức vừa mới bị thương. Thật là vô tư, nó là kết tinh của máu, mủ, da thịt, trí óc của hai con người mâu thuẫn nhau đã cấu tạo nên nó. Ngày mai khi đến tuổi trưởng thành, nó sẽ tiếp nối, đuổi theo cái vũng ánh sáng hạnh phúc mơ hồ của nhân loại mà nỗi buồn luôn luôn chờ đón nó trước ngưỡng cửa thiên đường.
MÂY-CAO-NGUYÊN
(Canada,July 1st 2010)  

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi đối với cha mẹ có thể cung kính mà vui vẻ, mới là tận Hiếu. Chữ “Kính” nhấn mạnh việc không để xảy ra sơ suất dù rất nhỏ, phụng dưỡng cha mẹ già xuất phát từ nội tâm, với khuôn mặt vui vẻ, mới có thể nói là “Hiếu.” Người già không khác những đứa trẻ, nhiều khi hay tủi thân, hờn dỗi và dễ phiền muộn. Con cái có thể cho cha mẹ ăn uống, hầu hạ cha mẹ khuya sớm nhưng rất khó biết đến nỗi buồn của cha mẹ lúc về già.
Giáo hội xin tán thán tinh thần hộ đạo và tu đạo của quí Thiện nam Tín nữ trong hoàn cảnh tai ương đầy kinh hãi hiện nay. Tất cả năng lực và công đức lớn lao này của người đệ tử, chúng con xin dâng lên cúng dường đức Thế Tôn trong ngày Đản sinh. Hàng trăm ngàn trái tim, hàng vạn ngàn bàn tay siết chặt giữa những thương đau tràn ngập của nhân loại, chúng con nguyện quán chiếu thật sâu sự khổ nạn hiện nay để kiên nhẫn mà vượt qua.
Có lẽ cả Trung Cộng lẫn Hoa Kỳ đều không mong muốn việc khơi mào cho một cuộc xung đột vũ trang, nhưng trước thái độ xác quyết của tổng thống Joe Biden, Trung Cộng hiểu rằng họ đang đối đầu với một đối thủ nguy hiểm gấp bội lần so với những năm qua.
Với chế độ độc đảng toàn trị hiện hành, với bộ máy tam trùng hiện tại, với văn hoá tham nhũng hiện nay, và với chủ trương cấm tự do báo chí cố hữu … thì chuyện sống được bằng lương mãi mãi chỉ là một kỳ vọng xa vời. Vô phương thực hiện!
Hội nghị Paris là một quá trình đàm phán giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt kể từ ngày 13 tháng 5 năm 1968, sau ngày 25 tháng 1 năm 1969 có thêm Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam (MTGPMN) tham gia. Ngoài 202 phiên họp chính thức của bốn bên, còn có thêm 24 cuộc mật đàm khác giữa Henry Kissinger và Lê Đức Thọ, Xuân Thủy. Cuối cùng, hội nghị kết thúc sau bốn năm chín tháng và bốn bên chính thức ký kết Hiệp định Paris để chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam vào ngày 27 tháng 1 năm 1973.
Ngày 30 tháng Tư năm 1975 khép lại trang sử Việt của hai lực lượng dân tộc đối đầu nhau trong thế tương tranh quốc tế giữa tư bản và cộng sản. Thế tương tranh này kéo dài từ tranh chấp giữa hai triết thuyết xuất phát từ phương Tây – Duy Tâm và Duy Vật, đã làm nước ta tan nát. Việt Nam trở thành lò lửa kinh hoàng, anh em một bọc chém giết nhau trong thế cuộc đảo điên cạnh tranh quốc tế.
Galang là tên một đảo nhỏ thuộc tỉnh Riau của Indonesia đã được chính phủ nước này cho Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp quốc sử dụng trong nhiều năm để người tị nạn Đông Dương tạm trú, trong khi chờ đợi được định cư ở một nước thứ ba. Trong vòng 17 năm, kể từ khi mở ra năm 1979 cho đến lúc đóng cửa vào năm 1996, Galang đã là nơi dừng chân của hơn 200 nghìn người tị nạn, hầu hết là thuyền nhân vượt biển từ Việt Nam và một số người Cam Bốt.
Hình ảnh thay cho ngàn lời nói, ghi nhận rõ "sự hấp hối" của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, ghi lại cảnh hỗn loạn, sự hoảng hốt, nỗi lo sợ của dân chúng lũ lượt rời nơi đang sinh sống, đã bỏ nhà cửa trốn chạy trước khi VC tràn vào thành phố
Chúng ta liệu có thể đóng vai trò giúp đỡ những người nhập cư và tị nạn trong tương lai như là người Mỹ đã từng làm cho chúng ta không? Theo lời của Emma Lazarus, liệu chúng ta có nâng “... ngọn đèn bên cạnh cánh cửa vàng” cho “... kẻ bão táp, người vô gia cư ... người mệt mỏi, người nghèo khổ” không? Đối với chúng tôi, trong ngày 30 tháng 4 này, không có câu hỏi nào có ý nghĩa và tính quan trọng hơn câu hỏi này.
Khách đến Việt Nam ngày nay thấy nhiều nhà cao cửa rộng, xe chạy chật đường hơn xưa. Nhưng đa số người Việt Nam có vẻ không có cái nhu cầu dân chủ của người Myanmar hay người Hồng Kông. Hay là họ có, nhưng 20 năm chiến tranh đã làm họ mệt mỏi, xuôi xị chấp nhận chút đầy đủ vật chất, nhắm mắt với tương lai? Và Đảng Cộng sản Việt Nam có thể hy vọng người Việt sẽ ngoan ngoãn như người dân Bắc Hàn, không cần dự phần tự quyết cho tương lai của mình và con cháu mình?


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.