Hôm nay,  

Vấn Ðề Mất Ðất Mất Biển: Tôi Thách Ông Vũ Dũng!

18/01/200800:00:00(Xem: 11322)
Ông Vũ Dũng trong trả lời phỏng vấn trên báo Nhân dân ngày 6-1-2008 khẳng dịnh: không có chuyện chúng ta mất dất mất biển.
Báo Nhân Dân khi mớm câu hỏi cho ông Vũ Dũng dã gợi trước câu trả lời ấy: ''một số người dưa tin có ý dồ xấu là phía ta dã mất dất ...''.
Tôi từng ở báo Nhân dân, biết rõ cung cách phỏng vấn kiểu ''mớm lời'' như thế, theo lập trường vâng lệnh dảng, lừa bạn dọc, bịp người dân.  Trơ trẽn!
Tôi thách ông thứ trưởng Vũ Dũng trả lời thêm những câu hỏi của tôi. Và xin lấy công luận làm trọng tài, lấy sự thật làm trọng tài.
Tôi dám thách ông Vũ Dũng, mà tôi từng quen biết từ khá lâu; dã từng ở Niu-Yóoc, tại trụ sở Liên Hợp Quốc với nhau.  Tôi dám dánh cá cược với ông, 1 ăn 10 cũng dược.
Trước hết tôi tin là ta mất dất. Mất cả ở vùng Ải Nam Quan, cả ở vùng Bản Giốc. Trước hết dó là 2 vùng không xa lạ với tôi. Ðã có nhiều lần hồi trẻ tôi thăm thác Bản Giốc. Nước ta rất hiếm thác, nên Bản Giốc nổi tiếng. Tôi còn nhớ như in cái thiệp du lịch thắng cảnh Ðông Dương do người Pháp in, có Thác Bản Giốc - Cao bằng, bên thác có cái ki-ốt tròn, nhỏ, lợp tranh dể người dến thăm có thể ngồi tránh nắng, mưa. Tôi dã dích thân cùng bạn và gia dình nhiều lần dến thăm thác Bản Giốc, khi gia dình tôi sống ở thị xã Cao bằng. Các chị và em tôi dã dở cơm nắm ra ăn trong cái ki-ốt nhỏ khi bọt nước ở chân thác bắn dến gần. Chúng tôi còn tò mò ngắm bà con người Mán sơn dầu sống gần dó. Phía Trung quốc còn ở xa, khá xa, không ai nhắc dến, dinh ninh là thác ở hẳn trên dất ta.
Ở Ải Nam Quan còn rõ hơn. Tôi di qua dây gần chục lần, bằng ô tô và xe lửa, những năm 1957, 1961, rồi 1976, 1977, 1986, 1989.  Cổng dá cao lớn  với 3 chữ hán ''Trấn Nam Quan'', sau dược dổi là ''Hữu Nghị Quan'' chữ vàng, cùng cột cây số có chữ  ''0 km'' chữ den nền trắng là những vật gây ấn tượng mỗi lần di qua. Thường dến dó xe dừng lại dể nghỉ ngơi, ngắm cảnh và dưa giấy tờ cho công an và hải quan 2 bên. Hai lần dầu, tôi nhớ rõ, chiếc cột cây số ở rất gần cổng, không sát cổng dổ xuống, nhưng không xa, ước tính bằng chiều rộng của một sân bóng dá, không thể dến 100 mét. Năm 1986, tôi quan sát kỹ, và nhận ra quang cảnh khác hẳn thời chiến, cổng vẫn thế, nhưng từ cổng dổ xuống, nhà cửa san sát, bãi xe rộng, nhà nghỉ, trạm gác, dãy nhà công an, hải quan của phía Trung quốc mọc lên, bề thế, di mỏi chân mới dến cột cây số mới toanh''0km'', không thể dưới 300 mét, phải bằng 2 chiều dài của sân bóng dá.
Cho nên chỉ bằng quan sát tại chỗ, so sánh thực tế, tôi cũng dã có thể khẳng dịnh ông Vũ Dũng không biết  thực tế, cố tình nói liều.
Tài liệu còn lưu trong hồ sơ chính quyền Pháp cũng nói dường biên giới ở cách chân cổng Trấn Nam Quan ''chừng 100 mét'', với bản dồ di kèm. Vậy mà theo sơ dồ vẽ tại chỗ hiện nay, khoảng cách ấy là từ 300 dến 350 mét. Chả trách bộ chính trị và bộ ngoại giao dấu kỹ các tập bản dồ dến thế, cho dù trong Hiệp dịnh về biên giới có ghi rõ tập bản dồ kèm theo là ''bộ phận cấu thành của Hiệp dịnh''. Chừng 100 mét, so với 300 hay 350 mét thì có khác gì nhau không thưa ông Vũ Dũng" Vậy thì cái cổng nặng nề ấy dã bị di dời sang phía Bắc, hay cái cột cây số nhỏ bé dã bị gió thổi về phía Nam"  Không thì vì dâu"
Cũng lại xin hỏi ông Dũng năm 1979 Bộ ngoại giao dã ra sách Trắng về sự thật trong quan hệ Việt-Trung và sự thật về biên giới 2 nước, có  nhiều doạn tố cáo phía Trung quốc: ''Ðã lợi dụng việc phía Việt nam nhờ in giúp bản dồ cỡ 1/100.000, vẽ vùng có thác Bản Giốc của Việt nam sang phía Trung quốc; dã lợi dụng việc nối dường sắt giữa 2 nước dể lấn sang biên giới Việt nam dến hơn 300 mét; dã nhân việc làm ống dẫn dầu qua biên giới mà lấn một dải dất dài 3100 mét, rộng 500 mét của lãnh thổ Việt nam''. Tôi biết hồi ấy chính ông dã cùng Trưởng ban biên giới Lê Minh Nghĩa tham gia viết sách Trắng ấy của Bộ ngoại giao, vậy nay ông có dám nói rằng tất cả những tố cáo ấy là không dúng, là sai, là vu cáo phía Trung quốc và nay ông xin sám hối hay không"
Tôi có cuốn sách Trắng ngay trước mặt dây, trong dó bộ ngoại giao lên án  ''nhà cầm quyền Trung quốc thực hiện một tư tưởng chỉ dạo  dại dân tộc, thực hiện một chính sách ích kỷ dân tộc và thực hiện mục tiêu chiến lược của chủ nghĩa bành trướng dại dân tộc và chủ nghĩa bá quyền nước lớn'', xin ông cho biết nay ông có thực tâm rút lui lời lên án ấy, dể thay vào dường lối mới của 2 bộ chính trị hiện nay là 16 chữ vàng (!): ''láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn dịnh lâu dài, hướng dến tương lai''.
Dư luận trong và ngoài nước mới chỉ quan tâm dến một vài chỗ có bề nổi trên dây, còn '' dể quên '' một số dịa diểm khác có tầm quan trọng hơn về chiến lược quân sự và tài nguyên, dặc biệt là ở phía Tây Bắc. Ðó là vùng Nậm chảy ở Lào kai; Phong Thổ ở Hoàng Liên Sơn; Tà lùng, Vị xuyên ở Hà giang (trước là Hà tuyên, khi Hà giang nhập với Tuyên quang), vùng núi Lão Sơn còn gọi là dãy núi Ðất, với cao diểm 1.509  lợi hại về quân sự, lại có mỏ man-gan và than dá ở gần..
Bá quyền Trung quốc, sau khi rút quân cuối tháng 3-1979 khỏi 6 tỉnh biên giới phía Bắc, càng tiếp sức cho bọn lính Khơ-me dỏ ở chiến trường Cambốt. Súng dạn, hậu cần, cố vấn Trung quốc, nửa triệu mìn cá nhân, trại lính, bệnh viện dã chiến Trung quốc dày dặc dọc biên giới Thái lan-Cambốt, tạo nên thế sa lầy dai dẳng và chảy máu khủng khiếp của ''quân tình nguyện'' Việt nam suốt 10 năm dài 1979 - 1988.  Trên biên giới phía Bắc, Trung quốc tạo sức ép thường xuyên quấy rối, bắn phá, xâm lấn dể phối hợp chặt với chiến trường phương Nam - cả 2 cuộc chiến dều là chiến tranh của bá quyền Bắc kinh chống Việt nam.

Từ giữa năm 1984 chúng tăng rất mạnh cuộc chiến ở vùng biên giới Hà giang - Lào kay, dánh lấn sát vào khu vực Sa-pa, chiếm  vùng núi Ðất - Lão Sơn, chiếm hẳn vùng  cao diểm 1509 ở sâu hơn 10 kilômét dể khống chế một vùng rộng. Bọn bành trướng rất thâm dộc, các cuộc chiến dấu rộ lên từng dợt ngắn, có lúc bắn dến 2 vạn trái pháo lớn, ngoặm từng miếng, dánh dến dâu nhích cột mốc theo dến dấy, chiếm các diểm cao, khai thác các mỏ than và man - gan tại chỗ. Trong khi ấy, họ vẫn quấy rối nhỏ ở biên giới 3 tỉnh phía Ðông là Cao bằng, Lạng sơn và Quảng ninh. Lúc ấy tôi còn nhớ rõ, chỉ thị của Tổng cục chính trị là không dưa tin chiến sự lớn ở phía tây Bắc, giao cho Quân khu II của tướng Vũ Lập tùy nghi dối phó, im thin thít như không có gì xảy ra, kể cả khi Bắc kinh làm rùm beng về việc dưa quân doàn 67 của Quân khu Tế Nam vào trận, gây tổn thất nặng cho sư doàn 356 chủ lực của Quân khu II.
Bộ ngoại giao và Ban biên giới Chính phủ thường xuyên dược thông báo về những trận dánh ở chiến trường Tây Bắc những năm 1984 và 1985 ấy, và ông Vũ Dũng không thể không biết.
Do nắm chắc tình hình trên dây mà tôi muốn hỏi ông Vũ Dũng là theo ông có thật là ta không mất dất ở vùng biên giới Hà Giang - Lào kay - Hoàng Liên Sơn không"  Theo tôi, các doàn dàm phán của phía ta từ năm 1996 dến 1999 dã tỏ ra rất mềm yếu. Nhiều giải núi ở Tây Bắc thưa dân giàu tài nguyên, có giá trị quân sự dã bị lấn chiếm. Con số 700 dến 800 km vuông bị mất không phải là bịa dặt. Thực tế có thể hơn.
Tại sao phía Việt nam lại tỏ ra lép vế, mềm yếu sau khi quân dân ta chiến dấu kiên cường ở biên giới phía Bắc. Ðiều lý giải có sức thuyết phục nhất là cuộc chiếm dóng và chiến dấu lâu dài ở Cam-bốt ngày càng sa lầy, bất lợi, bọn ''tàn quân '' Polpốt ngày càng dông và mạnh, dến 1989 Ðông Âu xã hội chủ nghĩa sụp dổ cùng bức tường Berlin dược phe cộng sản cho là bền vững, vĩnh cửu, rồi dến tháng 8-1991 Liên Xô và dảng cộng sản Liên xô dược coi là xương sống của thế giới cộng sản gẫy nát. Ðảng CS Việt nam quen sống có người dỡ dầu, có cột trụ dể dựa, nguồn sinh lực về kinh tế, tài chính, vũ khí, ngoại tệ, cho dến cả học thuyết, mô hình chế dộ, cung cách cầm quyền cũng hoàn toàn ngoại nhập, bỗng cảm thấy côi cút, hoang mang, trơ trọi, không biết bấu víu vào dâu dể tồn tại. Hầu hết lãnh dạo dảng vội quy phục bá quyền Trung quốc, van nài họ thay Liên Xô làm cột trụ - Anh Cả Ðỏ cộng sản-, dể cùng ôm nhau trụ lại. Họ xum xoe dề ra sáng kiến '' giải pháp dỏ '' mà ông Vũ Dũng chắc còn nhớ, nhằm tập họp mọi thế lực cộng sản, dù màu sắc nào, dỏ, hồng hay xanh, bắt tay anh em với cả Khơme dỏ diệt chủng. Trong thế Việt nam bị kẹp ở 2 dầu, bị phong tỏa và tẩy chay, lạm phát hơn 600%/na(m, Trung quốc càng làm cao, bắt bí, Việt nam càng quỵ lụy nhượng bộ dể cố bình thường hóa ưu tiên với Trung quốc, tưởng thế là khôn. Thế là Việt nam chui vào tròng bá quyền, khó chui ra.
Giang Trạch Dân chuyên thúc dục Lê Khả Phiêu phải thương lượng nhanh, phải ký Hiệp ước trên bộ trong năm 1999 (ký ngày 30-12-1999), và ký Hiệp ước trên biển trong năm 2000 (ký ngày 25-12-2000). Có ai di thương lượng lại chịu ép trước về thời gian dến thế " Cho nên rất dễ hiểu là các nhà dàm phán Việt nam dều nhũn như con chi chi, chính Ðỗ Mười cũng tố cáo Lê Khả Phiêu là nhượng bộ quá, ''dể mất quá nhiều'' cho Trung quốc.
Ðể kết luận cuộc thảo luận lý thú này, xin báo tin với bạn dọc là việc kết luận có mất dất và mất biển hay không, trong 5, 6 tháng nữa có thể kết luận minh bạch. Trong Hiệp ước về biên giới trên bộ, có '' Ðiều VI '' ghi rõ:
1- Hai Bên quyết dịnh thành lập ủy ban Liên hợp phân giới và cắm mốc biên giới trên dất liền Việt nam Trung quốc và giao cho ủy ban này nhiệm vụ xác dịnh trên thực dịa dường biên giới Việt Trung như dã nêu trong Ðiều II của Hiệp ước này và tiến hành công việc phân giới, cắm mốc, cụ thể là xác dịnh vị trí chính xác của dường sông núi, dường phân thủy, trung tuyến của dòng chảy chính, trung tuyến tuyến luồng chính tàu thuyền di lại và các doạn dường biên giới khác, xác dịnh rõ sự quy thuộc của các cồn, bãi trên sông suối biên giới, cùng nhau cắm mốc biên giới, soạn thảo Nghị dịnh thư về biên giới trên dất liền giữa 2 nước, gồm cả hồ sơ chi tiết về vị trí các mốc biên giới, vẽ bản dồ chi tiết dính kèm Nghị dịnh thư thể hiện hướng di của dường biên giới và vị trí các mốc biên giới trên toàn tuyến, cũng như giải quyết các vấn dề cụ thể liên quan dến việc hoàn thành các nhiệm vụ kể trên.
2- Ngay sau khi có hiệu lực, Nghị dịnh thư về biên giới trên dất liền giữa hai nước nói tại khoản 1 Ðiều này trở thành một bộ phận của Hiệp ước này và bản dồ chi tiết dính kèm Nghị dịnh thư này thay thế bản dồ dính kèm Hiệp ước này."
Hai bên dã thỏa thuận tháng 6-2008 này sẽ hoàn tất việc phân giới cắm mốc và ký Nghị dịnh thư về biên giới trên bộ. Nội dung Nghị dịnh thư, các bản dồ chi tiết sẽ dược công bố ở cả 2 bên, thông thường là phổ biến cho thông tấn, báo chí, cho các cơ quan hành chính, quốc phòng, an ninh, hải quan, văn hóa, giáo dục, du lịch, cho dến tận mọi làng xã dọc biên giới.
Lúc ấy muốn che dấu, úp mở cũng không dược nữa. Phía Bắc kinh sẽ nhanh nhẩu phổ biến tập bản dồ mới dể khoe thắng lợi. Vì họ thắng dậm.
So sánh với các bản dồ của các thời kỳ trước dây, sẽ có thể biết rõ có mất dất hay không" và mất bao nhiêu" với tập bản dồ và vài trăm sơ dồ cụ thể.
Lúc ấy, các ông Vũ Dũng, Lê Dũng, Lê Công Phụng, rồi các nguyên ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm, Nguyễn Dy Niên, dến ông Lê Khả Phiêu và các ông tứ trụ Nông Ðức Mạnh, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn tấn Dũng, Nguyễn Phú Trọng sẽ có dầy dủ chứng cớ minh bạch là dã bảo vệ biên giới bất khả xâm phạm của Tổ quốc ra sao. Hay sẽ dực mặt bán dất bán nước ra sao.
Tôi không có máu cờ bạc, cũng không có tật hiếu thắng dể thách dố hay cá cược. Nhưng không thể ngồi yên dể cho nhóm cầm quyền nhu nhược làm mất dất - mà tôi dinh ninh là nhiều lắm, làm mất hơn một vạn km vuông mặt biển, và còn cúi dầu chịu ''hợp tác nghề dánh cá'' với bành trướng, một kiểu ''hợp tác'' bắt buộc quá ư so le như giữa một anh lực sỹ khổng lồ giàu phương tiện hiện dại với một chú bé chỉ có phương tiện thô sơ. Họ ăn hiếp và dành vô vàn tài nguyên về nước họ, chỉ cho ta ăn cặn bã xương xẩu là cái chắc. Ông Vũ Dũng và các bạn dồng nghiệp có biết dau không"
 Riêng về chuyện mất dất hay không, tôi thách ông Dũng và xin chờ  xem. Câu chuyện có thể kết thúc trong dăm tháng. Không ai trốn tránh dược.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Năm 1895, Alfred Nobel – nhà khoa học bị ám ảnh bởi cái giá mà nhân loại phải trả từ phát minh của mình – đã để lại di chúc năm 1895 rằng tài sản của ông sẽ dùng để tài trợ các giải thưởng “mang lại lợi ích lớn nhất cho nhân loại.” Đối với Nobel Hòa Bình, ông có phần đặc biệt: giải thưởng này sẽ được trao cho người đã “có nhiều hành động hoặc nỗ lực mang đến sự đoàn kết, hòa bình giữa các quốc gia, bãi bỏ hoặc giảm bớt quân đội thường trực, tổ chức và thúc đẩy các hội nghị hòa bình.” Sứ mệnh chọn lựa được giao cho Quốc Hội Na Uy, có lẽ vì ông tin rằng Na Uy – khi đó còn nhỏ bé và trung lập – sẽ ít bị cám dỗ bởi chính trị quyền lực.
Trung Hoa ngày nay như kinh thành giữa sa mạc, vẻ yên ổn bên ngoài chỉ là lớp sơn son thếp vàng phủ lên nền đá đã rạn. Thế giới đứng ngoài quan sát, vừa lo nó sụp, vừa biết nó trụ lại nhờ ảo ảnh quyền lực và niềm tin vay mượn. Dưới lớp hào nhoáng của “Giấc mộng Trung Hoa” là một cơ đồ quyền lực đang già nua trong chính tuổi trẻ của mình. Bởi sức mạnh của nó không khởi từ niềm tin, mà từ nỗi sợ — và nỗi sợ, tự thuở khai triều lập quốc, chưa bao giờ là nền tảng lâu bền.
Ngày 8 tháng 10 năm 2025, tại tòa án liên bang ở Alexandria, bang Virginia, cựu Giám đốc Cơ quan Điều tra Liên bang (FBI) James Comey không nhận tội đối với hai cáo buộc hình sự. Cáo trạng nêu rằng vào tháng 9 năm 2020, Comey đã nói dối Quốc Hội khi vẫn giữ nguyên lời khai trong buổi điều trần trước đó rằng ông không hề cho phép để lộ thông tin về cuộc điều tra của FBI liên quan đến Hillary Clinton. Theo nhiều bình luận gia pháp lý, từ cánh tả đến cánh hữu, việc truy tố Comey chủ yếu chỉ là do chính phủ liên bang đang cố tình nhắm vào kẻ mà Tổng thống “thấy không vừa mắt.” Comey là người đứng đầu cuộc điều tra nghi án Nga can thiệp bầu cử tổng thống 2016 và bị Trump lột chức vào năm 2017.
Sau sáu ngày đột ngột “bặt tiếng,” chương trình Jimmy Kimmel Live, của MC kiêm diễn viên hài và nhà biên kịch nổi tiếng, đã trở lại với khán thính giả vào tối 23/9/2025. Sự trở lại này, chỉ vỏn vẹn sau gần một tuần bị đình chỉ, không chỉ là tin vui với những người yêu tiếng cười đêm khuya của truyền hình Mỹ, mà còn là một hồi chuông cảnh tỉnh, kéo theo những bàn luận trái chiều, chạm đến cốt lõi của tự do ngôn luận, một trong những quyền thiêng liêng nhất trong thể chế dân chủ.
Texas, mùa thu 2025 – trên khuôn viên đại học giữa vùng đất vốn tự hào là “trái tim bảo thủ của nước Mỹ”, thay vì nghe tiếng lá thu rơi, người ta lại nghe tiếng giày đinh vang vọng, bước chân của bóng ma McCarthyism quay về - phiên bản thế kỷ 21 - trở lại giảng đường với tốc độ và sự kinh dị của thời đại kỹ thuật số. Ngày 9 tháng 9, trên bục giảng của trường Texas A&M University, giáo sư Melissa McCoul trong giờ văn học thiếu nhi, dùng hình một con kỳ lân tím để nói với sinh viên rằng bản sắc con người không chỉ có hai nửa nam–nữ. Một sinh viên giơ tay hỏi: “Điều này có hợp pháp không?” và viện dẫn sắc lệnh mà Tổng thống Donald Trump ký hồi tháng Giêng, tuyên bố chỉ có hai giới tính sinh học. Bà McCoul đáp bằng lý lẽ, không viện dẫn chính trị. Nhưng một chiếc điện thoại trong lớp đã ngầm quay lại hình ảnh. Và chỉ ít lâu sau, cả nước đều xem đoạn clip ấy – không phải để học, mà để phán xét.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi thể chế, phương Tây và Việt Nam đang phải đối diện trước những thách thức nghiêm trọng về cải cách chính sách để cho phù hợp với nhu cầu của thời đại mới, nhất là vai trò của pháp luật. Pháp luật là nền tảng thiết yếu cho sự vận hành ổn định và công bằng của xã hội. Là hệ thống quy phạm điều chỉnh hành vi con người, pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân và tập thể mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững. Trong xã hội hiện đại, vai trò của pháp luật được thể hiện rõ nét qua các lĩnh vực như bảo vệ an ninh quốc phòng, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm quyền tự do cá nhân, phát triển phúc lợi xã hội, và thúc đẩy tinh thần hợp tác cũng như hội nhập.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Quantico, Virginia, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth bước lên sân khấu trước hàng trăm tướng và đô đốc được triệu tập từ khắp nơi trên thế giới. Ông tuyên bố sẽ “cải tổ văn hóa quân đội” bằng mười chỉ thị mới, nhằm quét sạch cái mà ông gọi là “rác rưởi thức tỉnh” và khôi phục “tinh thần chiến binh”. Cụm từ ấy – nửa ca tụng bạo lực, nửa tán dương cơ bắp – nay đã trở thành thương hiệu chính trị của Hegseth. Trong cuốn Cuộc Chiến Chống Lại Những Chiến Binh (2024), ông cho rằng việc phụ nữ được đưa vào các vai trò chiến đấu đã “làm cạn kiệt” tinh thần này, khiến quân đội Hoa Kỳ “ít sát thương hơn.” Nghe qua, người ta tưởng quân đội chỉ tồn tại để đong máu đếm xác.
Ông bà xưa đã nói, nắm thì “nắm kẻ có tóc ai nắm kẻ trọc đầu.” Cách nói dân gian này rất cụ thể và dễ hình dung, người có tóc thì dễ bị nắm, bị túm, còn người trọc đầu thì không thể nắm được. Mang câu nói này vào chính trường Mỹ hiện tại, quả là khôi hài, nhưng không kém màu bi kịch. Nó phản ánh một sự thật trần trụi và không thể tránh khỏi: Quyền lực, chính sách, sắc lệnh hành pháp, các cuộc chiến pháp lý và ‘tuổi thọ’ chính trị của người đứng đầu nhánh hành pháp đang phụ thuộc vào sự phục tùng của các nhà lãnh đạo và những tài phiệt. Họ là ai? Họ là một mạng lưới của các quan chức, nhà lập pháp, giám đốc điều hành truyền thông, nhà tài trợ…, những người đã chọn chọ họ một thế đứng, xuôi theo những gì tổng thống muốn.
Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đang đánh một đòn nguy hiểm: huy động các văn phòng công tố đi điều tra mạng lưới từ thiện Open Society Foundations của gia đình Soros, một quỹ từ thiện quốc tế, nổi tiếng với việc tài trợ cho các dự án dân chủ, giáo dục và nhân quyền trên khắp thế giới. Danh sách cáo buộc nghe cứ như “vật lạ”: từ đốt phá đến tài trợ khủng bố. Open Society Foundations lập tức phản đối, khẳng định mình hoạt động hợp pháp, và nhắc lại điều mà bất cứ người tỉnh táo nào cũng hiểu: khi chính quyền có thể tùy tiện lấy một nhóm dân sự làm vật tế, thì quyền của mọi nhóm khác cũng chẳng còn gì bảo đảm.
Trong nhiều thập niên qua, giải pháp hai nhà nước luôn được xem là phương án khả thi nhằm mang lại hòa bình cho khu vực Trung Đông. Tuy nhiên, tiến trình này vẫn chưa đạt được kết quả cụ thể. Gần đây, cuộc tranh luận về việc công nhận nhà nước Palestine đang có những chuyển biến mới khi Pháp và Ả Rập Xê Út tổ chức một hội nghị quốc tế tại New York, ngay trước thềm Đại hội thường niên của Liên Hiệp Quốc.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.