Hôm nay,  

Những Ai Biết Điều Phục

04/11/200900:00:00(Xem: 6255)

Những Ai Biết Điều Phục

Chùa Viên Thông TP Bellflower Mời Dự Lễ Phật Đản, Nghe Pháp
Bài Giảng ngày Phật Đản của PHẠM CÔNG THIỆN
tại Thiền Tu Viện Viên Thông ở thành phố Bellflower, California, Mỹ Quốc, Chủ Nhật, 3 tháng 5, 2009 (âm lịch, mùng 9 tháng 4, năm Kỷ Sửu)
Những Ai Biết Điều Phục
Namo tassa Bhagavato arahato samma--sambuddhassa!
“Một hiện thể độc nhất, một nhân thể phi thường trác việt xuất hiện ở thế gian vì phúc lợi cho nhiều sinh thể, vì hạnh phúc cho nhiều sinh thể, phát xuất từ lòng từ bi đối với thế gian, vì sự lành thiện, vì sự lợi ích và vì sự hạnh phúc cho chư thiên và cho loài người.  Hiện thể độc nhất ấy là ai" Đó là đấng Như Lai, Tatha-gata, Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác”
(Anguttara Nika-ya, I, 1, 13, trang 22)
Hiện thể, hữu thể, sinh thể, xuất thể, hay tính thể đầu là tất cả những gì có mặt và vắng mặt đang di chuyển và di động ở ngoài và ở bên trong tâm ý và tâm thức của chúng ta, cả ý thức, thất thức, bất thức và vô thức.
Hiện thái và hiện thế, tư thái và thái độ của chúng ta đối với những gì có mặt và vắng mặt, những thái, thế và độ ấy quyết định hết tất cả sinh thái, sinh thế và sinh độ của chúng ta hiện nay.
Thái độ và tư cách của chúng ta đối với Đức Phật như thế nào" Hiển nhiên là qui y Tam Bảo và điều vô cùng quan trọng là phát dậy Bồ Đề Tâm, lòng Bồ Đề, quyết tâm thành Phật vì phúc lợi cho chúng sinh, vì hạnh phúc cho chúng sinh, vì lợi ích, vì sự hạnh phúc cho tất cả những ông Trời (chư thiên) và vì sự hạnh phúc cho nhân loại và cho tất cả sinh thể, tức là chúng sinh.
Thái độ và tư cách của chúng ta đối với bất cứ chúng sinh nào đều quyết định và chuyển hướng sinh mệnh, thể mệnh, nghiệp mệnh, và tính mệnh mình đến một lộ trình đạo nghiệp nhất định.
Huống chi đối với một bậc thầy hay đối với tất cả những bậc thầy" Tất cả chúng sinh đều là bậc thầy của mình, tất cả chư thiên đều là những bậc thầy của mình, huống chi là bậc Thầy của tất cả những bậc Thầy, bậc Thầy của tất cả chư thiên và loài người, nhân thiên sư.
Hiện thể duy nhất, độc nhất, xuất hiện ở thế gian là ai"
Đó là Như Lai, Phật, Thế tôn, Chánh Đẳng Chánh Giác.
Từ lúc xuất hiện thể, tính thể thị hiện, hiện thể độc nhất, duy nhất, phi thường trác việt, siêu việt bừng vỡ xuất hiện ở thế gian thì hiện thái, hiện cách và hiện thế, thái độ và tư cách thể thái của chúng ta đối với kẻ đi như thế và đến như thế (Như Lai, Tatha-gata) như thế nào"
Tất cả chúng ta, từ bao giờ cho đến bây giờ, trong tâm ý và tâm thức, ý thức, thất thức, bất thức, hiển thức, lộ thức, tiềm thức, thượng thức, hạ thức và vô thức và ẩn thức, tất cả cái thức ấy đều giống hệt như là vị Bà La Môn đáng kính, tên là Drona.
Một hôm, bậc Bà La Môn Drona nhìn thấy Đức Phật đang ngồi dưới gốc cây, liền hỏi Đức Phật:
- Thưa Ngài, có phải Ngài là một deva, một ông Trời"
Đức Phật trả lời:
- Không, ta không phải là ông Trời.
Bà La Môn Drona hỏi tiếp:
- Vậy Ngài có phải là một gandharva, một Càn Thát Bà, một Hương   Thần, Nhạc Thần, Hương Âm Thần"
Đức Phật kiên nhẫn trả lời:
- Không, không phải thế.
Bà La Môn hỏi tiếp:
- Vậy có phải Ngài là một Yaksa, một Dạ Xoa, Năng hám quỷ, Tiệp     tật quỷ"
Đức Phật (mỉm cười) trả lời:
- Không, không thế đâu.
Bà La Môn hỏi nữa:
- Thế thì Ngài có phải là người, loài người"
Đức Phật (mỉm cười, với lòng Đại Bi và Đại Trí Huệ Bát Nhã) trả lời:
- Ta không phải là người, không phải loài người.
Bà La Môn Drona, bị thức động đậy, hỏi nữa, vì chẳng bao giờ hiểu được và biết được Đức Phật là ai, và Đức Phật mở hé ra đôi chút cho Drona và chúng ta được biết chút ít rằng Đức Phật đã tiêu diệt hết tất cả tập khí, tất cả tham ái, tham dục mà chư thiên, Càn Thát Bà, Dạ Xoa và loài người còn vẫn vướng mắc, vì đã tiêu diệt tất cả phiền não, tất cả tham, sân, và si, mà Đức Phật mới thị hiện giáng sinh, đản sinh là Đức Phật, Thế tôn, Như Lai, Chánh Đẳng Chánh Giác. 
Nếu chúng ta nhìn ngó Đức Phật là một nhân vật lịch sử thì chúng ta đã giới hạn Đức Phật vào thế giới loài người.  Diệu Pháp Liên Hoa Kinh bùng vỡ xuất hiện vào thế giới loài người cũng vì để phá vỡ cái nhìn đui mù của thế gian.
Trong thế giới và thế gian loài người thì Đức Phật đản sinh vào năm 623 trước Tây lịch và nhập Niết Bàn vào năm 543 trước Tây lịch, (theo Hòa Thượng Mahathera Narada) hay năm 563 trước Tây lịch và nhập diệt khoảng 80 năm sau năm 563 (theo học giả Narasu).  Có một điều rõ ràng dứt khoát là Hoàng Đế Asoka đã dựng một cột đài vào năm 239 trước Tây lịch và có ghi khắc rằng Đức Phật đã đản sinh nơi đây, tức là vườn Lumbini gần Kapilavastu, hiện tại là Padeira, ở hướng Bắc vùng Gorakpur, biên giới Ấn độ và Nepal.
Trong tác phẩm Lịch Sử Phật Giáo Ấn Độ, Pháp Sư Trung Hoa, Thánh Nghiêm có đề cập vấn đề niên đại của Đức Phật, (theo bản Việt dịch của Thầy Thích Tâm Trí, nhà x.b. Phương Đông, Sài Gòn, 2008; trang 47-48):
“Mãi đến thời gian gần đây, dựa vào các tư liệu cũng như ở góc độ khảo cứu mà suy luận những gì có liên quan đến niên đại của Đức Phật, thì có đến bảy mươi nhà học giả đưa ra nhiều thuyết khác nhau.  Trong khi các bậc cổ đức ở Trung Quốc lại dựa vào hiện tượng tinh tú cũng như sự chuyển vận của địa cầu được ghi trong cổ sử mà ức đoán rằng Đức Phật đản sinh năm giáp dần, đời Chu Chiêu Vương thứ hai mươi sáu (trước Tây lịch 1027 năm), và Ngài nhập diệt vào đời Chu Mục Vương, thứ năm mươi ba (năm nhâm thân, trước Tây lịch 949 năm).  Thuyết này xin đọc “Lịch Đại Tam Bảo Ký” quyển một (Đại Chánh Tạng -49, trang 23) hoặc trong “Phật Tổ Thông Ký” quyển hai (Đại Chánh Tạng -49, trang 143)”.
Có nhiều vị bác học, giáo sư Phật học và học giả Phật học thường hay có thái độ khoa học, gọi là khoa học, dù cái gọi là “khoa học lịch sử” thường hay bị nô lệ vào những gì gọi là niên đại đích thực của cái gọi là “sử học”, “khoa học lịch sử” và “lịch sử”.
Lịch sử là cái gì" Lịch sử tính và Sử Tính là gì"
Đây không phải là lúc đề cập vào ngày linh thiêng của nhân loại, ngày Phật Đản.
Nếu chúng ta muốn xem Đức Phật là loài người thì điều này cũng nên suy nghĩ cho đứng đắn.  Ngay đến sự tiến bộ vượt bực của tất cả những nền khoa học ở thế kỷ XXI này, vẫn không có khoa học gia hay triết gia vĩ đại nào hiểu được con người là cái gì, hà huống biết được Đức Phật là ai.


Chúng ta chỉ biết được đôi chút về Đức Phật mỗi khi chúng ta hết lòng phát dậy Bồ Đề Tâm và tu hành Đạo Bồ Đề Tâm.  Ngày Phật Đản chỉ đúng nghĩa ngày Phật Đản là mỗi ngày trong đời chúng ta đều là ngày Phật giáng sinh trong lòng chúng ta từng giây phút này đến giây phút khác.  Mỗi đêm và mỗi ngày Đức Phật đều giáng sinh trong lòng chúng ta, mỗi khi lòng chúng ta là lòng Bồ Đề.
Lòng Bồ Đề được thể hiện trong đại thần chú Quán Thế Âm: OM MANI PADME HUM và đại thần chú Phật Mẫu Ta-ra, ứng hóa thân của Quán Thế Âm Như Lai và Quán Thế Âm Bồ Tát: OM TARÉ TUTTARÉ TARÉ SVA-HA- và trong đại thần chú sư phụ Padmasambhava, Liên Sinh Bồ Tát: OM AH HUM VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUM.
Mỗi lần chúng ta trì tụng tất cả những chân ngôn, đại thần chú của chư Phật, chư Đại Bồ Tát thì Bồ Đề Tâm xuất hiện ngay lập tức trong lòng chúng ta.
Muốn hiểu xảo mật ngữ nơi tất cả chỗ thọ sanh và đản sinh của chư Phật và chư Đại Bồ Tát (kinh Hoa Nghiêm, quyển 6 trang 262); trước khi giáng sinh, Đức Phật ở Đâu Suất Thiên Cung, khuyên chư Thiên Tử phát Bồ Đề Tâm (op.cit.,tr.529), phát tâm vô thượng Bồ Đề, lúc sắp giáng sanh hiện ra mười mật sự (op.cit.,tr.535-542), thị hiện ở thai mẹ cũng có mười mật sự (trang 542-547, hán bộ quyển 59), trong Phẩm Ly Thế Gian, xxx viii chúng ta được học về lòng Bồ Đề trong mười điều đản sanh, giáng sanh:
1. Đản sinh vì xa lìa dứt hẳn Ngu Si, do Chánh Niệm và Chánh Tri mà đản sinh;
2. Đản sinh vì để phóng lưới Đại Quang Minh chiếu trùm toàn thể Đại Thiên thế giới;
3. Trụ tối hậu hữu, không còn thân sau nữa mà đản sinh;
4. Đản sinh, mà vẫn bất sanh và bất khởi;
5. Đản sinh, mặc dầu biết tam giới như huyễn mộng;
6. Đản sinh mà đồng lúc hiện thân ở thập phương thế giới;
7. Đản sinh mà thân chứng Nhứt Thiết Chủng Trí;
8. Đản sinh lúc phóng ra tất cả Quang Minh Phật để giác ngộ tất cả thân chúng sinh;
9. Đản sinh vào lúc nhập Đại Trí Quán Sát Tam Muội;
10. Đản sinh làm chấn động tất cả cõi Phật và giải thoát tất cả chúng sinh, tiêu diệt tất cả ác đạo, phủ lấp tất cả ma quỉ và vô lượng chư Bồ Tát đều nhóm họp (thị hiện Bồ Đề Tâm Hạnh);
Tại sao vừa giáng sinh, Đức Phật mỉm cười, lòng tự nguyện thệ mỉm cười vui vẻ" vì sao lúc vừa giáng sinh, Ngài thị hiện đi bảy bước"
1. Thị hiện đi bảy bước để hiện sáng lên Bồ Tát Lực;
2. Vì xả thí bảy Thánh Tài;
3. Vì làm thỏa nguyện Địa Thần;
4. Vì hiện ra tướng Siêu Tam Giới;
5. Vì hiện ra bước chân tối thắng của Bồ Tát, vượt hẳn bước đi tượng vương, ngưu vương và sư tử vương;
6. Vì hiện tướng Đất Kim Cang (Kim Cang Địa);
7. Vì muốn ban cho chúng sinh sức mạnh dũng mạnh;
8. Vì hiện tu hành Thất Giác Bảo;
9. Vì hiện pháp đã thực hiện chẳng do ai dạy cả;
10. Vì thị hiện tối thẳng vô tỉ ở thế gian để điều phục chúng sinh. (trang 551-553)
Về cuộc đời của Đức Phật tôi không muốn đề cập nhiều hôm nay và tôi xin chúng ta nên trì tụng Phật Sở Thành Tán của Tổ sư Mã Minh, còn về tu hành Bồ Đề Tâm thì xin trì tụng hằng ngày Nhập Bồ Tát Hạnh của Tổ sư Tịch Thiên, ShantiDeva.
Còn muốn thu gọn Phật Pháp thì chúng ta đều quen biết một bài kệ kinh Pháp Cú mà tất cả tông phái của Nguyên Thủy, Đại Thừa và Kim Cang Thừa Mật Tông đều trì tụng tu hành:
Chư ác mạc tác
Chúng thiện phụng hành
Tự tịnh kỳ ý
Thị chư Phật Giáo
Chớ làm các điều ác
Gắng làm các việc lành
Giữ tâm ý trong sạch
Ấy, lời chư Phật dạy
(Hòa Thượng Thích Trí Đức dịch)
Không làm việc ác!
Kính làm việc lành!
Làm sạch tâm ý!
Đó, chư Phật dạy
(Hòa Thượng Trí Quang dịch)
Không làm điều ác
Trau dồi việc thiện
Thanh lộc tâm
Đó là Giáo huấn của chư Phật
(Phạm Kim Khánh tiên sinh dịch từ bản dịch chữ Anh của Hòa Thượng Na-rada)
Từ bản dịch chữ Tàu cho đến những bản dịch chữ Việt của chư Hòa Thượng tôn đức, tôi thấy bản dịch nào cũng tuyệt vời trong veo như nắng trong veo của vùng California này.  Cũng nên thêm vào đây bản dịch của Hòa Thượng Thích Minh Châu, Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh những ngày xưa cũ:
Không làm mọi điều ác
Thành tựu các hạnh lành
Tâm ý giữ trong sạch
Chính lời chư Phật dạy
(Kinh Lời Vàng, kệ 183)
Bản dịch của Hòa Thượng có chổ khác là “mọi điều ác”, tức là tất cả điều ác, Hòa Thượng đã dịch trọn vẹn từng chữ Pa-li, trong sáng, trong veo đầy đủ, vì Hòa Thượng không quên chữ “sabba”, nghĩa là “mọi”, “tất cả” như nguyên tác Pa-li:
Sabbapapassa akaranam
Kusalassa upasampada
Sacittapariyodanam
Etam buddha-na sasanam
(dhammapada, 183)
Muốn hiểu thiện là gì, ác là gì, chúng ta nên trì tụng Kinh Mười Thiện Nghiệp (Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo đã được Hòa Thượng Trí Quang dịch ra chữ Việt), còn muốn hiểu Tâm Ý Giữ Trong Sạch, chúng ta nên trì tụng Thanh Tịnh Đạo của Buddhaghosa do Sư Bà Trí Hải dịch ra chữ Việt).
Trước khi chấm dứt, cũng nên nhắc lại mười thiện nghiệp mà tất cả chúng ta đều học thuộc lòng từ bao giờ cho đến bây giờ:
1. từ bỏ vĩnh viễn sự làm sát sinh;
2. từ bỏ vĩnh viễn sự làm trộm cướp;
3. từ bỏ vĩnh viễn sự làm tà hạnh;
4. từ bỏ vĩnh viễn sự nói dối trá;  
5. từ bỏ vĩnh viễn sự nói ly gián;
6. từ bỏ vĩnh viễn sự nói thô ác; 
7. từ bỏ vĩnh viễn sự nói thêu dệt;
8. từ bỏ vĩnh viễn sự nghĩ tham dục;
9. từ bỏ vĩnh viễn sự nghĩ giận dữ;
10. từ bỏ vĩnh viễn sự nghĩ tà kiến;
     Hòa Thượng Trí Quang đã giảng rộng sâu rõ ràng hơn nữa:
 1. không làm sát sinh mà làm hộ sinh;
2. không làm trộm cướp mà làm thí xả;
3. không làm tà hạnh mà làm phạm hạnh;
4. không nói dối trá mà nói chân thật;
5. không nói ly gián mà nói hòa giải;
6. không nói thô ác mà nói ái ngữ;
7. không nói thêu dệt mà nói như nghĩa;
8. không nghĩ tham dục mà nghĩ ly dục;
9. không nghĩ giận dữ mà nghĩ từ bi;
10. không nghĩ tà kiến mà nghĩ chánh kiến;
    (Kinh 10 Thiện Nghiệp, Hòa Thượng Trí Quang dịch, tr.121-122)
Xin hồi hướng công đức cho tất cả chúng sinh được chứng ngộ Lòng Bồ Đề, và tôi xin kính cẩn tạ ơn Thượng Tọa Thích Thông Niệm, Viện Chủ Viện Viên Thông, đã cho tôi được thời tiết nhân duyên để làm chút ít Phật sự trong mùa Phật Đản năm nay.
PHẠM CÔNG THIỆN
Bellflower, Califnornia
Ngày 3 tháng 5, 2009

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.