Hôm nay,  

Những Ai Biết Điều Phục

04/11/200900:00:00(Xem: 6256)

Những Ai Biết Điều Phục

Chùa Viên Thông TP Bellflower Mời Dự Lễ Phật Đản, Nghe Pháp
Bài Giảng ngày Phật Đản của PHẠM CÔNG THIỆN
tại Thiền Tu Viện Viên Thông ở thành phố Bellflower, California, Mỹ Quốc, Chủ Nhật, 3 tháng 5, 2009 (âm lịch, mùng 9 tháng 4, năm Kỷ Sửu)
Những Ai Biết Điều Phục
Namo tassa Bhagavato arahato samma--sambuddhassa!
“Một hiện thể độc nhất, một nhân thể phi thường trác việt xuất hiện ở thế gian vì phúc lợi cho nhiều sinh thể, vì hạnh phúc cho nhiều sinh thể, phát xuất từ lòng từ bi đối với thế gian, vì sự lành thiện, vì sự lợi ích và vì sự hạnh phúc cho chư thiên và cho loài người.  Hiện thể độc nhất ấy là ai" Đó là đấng Như Lai, Tatha-gata, Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác”
(Anguttara Nika-ya, I, 1, 13, trang 22)
Hiện thể, hữu thể, sinh thể, xuất thể, hay tính thể đầu là tất cả những gì có mặt và vắng mặt đang di chuyển và di động ở ngoài và ở bên trong tâm ý và tâm thức của chúng ta, cả ý thức, thất thức, bất thức và vô thức.
Hiện thái và hiện thế, tư thái và thái độ của chúng ta đối với những gì có mặt và vắng mặt, những thái, thế và độ ấy quyết định hết tất cả sinh thái, sinh thế và sinh độ của chúng ta hiện nay.
Thái độ và tư cách của chúng ta đối với Đức Phật như thế nào" Hiển nhiên là qui y Tam Bảo và điều vô cùng quan trọng là phát dậy Bồ Đề Tâm, lòng Bồ Đề, quyết tâm thành Phật vì phúc lợi cho chúng sinh, vì hạnh phúc cho chúng sinh, vì lợi ích, vì sự hạnh phúc cho tất cả những ông Trời (chư thiên) và vì sự hạnh phúc cho nhân loại và cho tất cả sinh thể, tức là chúng sinh.
Thái độ và tư cách của chúng ta đối với bất cứ chúng sinh nào đều quyết định và chuyển hướng sinh mệnh, thể mệnh, nghiệp mệnh, và tính mệnh mình đến một lộ trình đạo nghiệp nhất định.
Huống chi đối với một bậc thầy hay đối với tất cả những bậc thầy" Tất cả chúng sinh đều là bậc thầy của mình, tất cả chư thiên đều là những bậc thầy của mình, huống chi là bậc Thầy của tất cả những bậc Thầy, bậc Thầy của tất cả chư thiên và loài người, nhân thiên sư.
Hiện thể duy nhất, độc nhất, xuất hiện ở thế gian là ai"
Đó là Như Lai, Phật, Thế tôn, Chánh Đẳng Chánh Giác.
Từ lúc xuất hiện thể, tính thể thị hiện, hiện thể độc nhất, duy nhất, phi thường trác việt, siêu việt bừng vỡ xuất hiện ở thế gian thì hiện thái, hiện cách và hiện thế, thái độ và tư cách thể thái của chúng ta đối với kẻ đi như thế và đến như thế (Như Lai, Tatha-gata) như thế nào"
Tất cả chúng ta, từ bao giờ cho đến bây giờ, trong tâm ý và tâm thức, ý thức, thất thức, bất thức, hiển thức, lộ thức, tiềm thức, thượng thức, hạ thức và vô thức và ẩn thức, tất cả cái thức ấy đều giống hệt như là vị Bà La Môn đáng kính, tên là Drona.
Một hôm, bậc Bà La Môn Drona nhìn thấy Đức Phật đang ngồi dưới gốc cây, liền hỏi Đức Phật:
- Thưa Ngài, có phải Ngài là một deva, một ông Trời"
Đức Phật trả lời:
- Không, ta không phải là ông Trời.
Bà La Môn Drona hỏi tiếp:
- Vậy Ngài có phải là một gandharva, một Càn Thát Bà, một Hương   Thần, Nhạc Thần, Hương Âm Thần"
Đức Phật kiên nhẫn trả lời:
- Không, không phải thế.
Bà La Môn hỏi tiếp:
- Vậy có phải Ngài là một Yaksa, một Dạ Xoa, Năng hám quỷ, Tiệp     tật quỷ"
Đức Phật (mỉm cười) trả lời:
- Không, không thế đâu.
Bà La Môn hỏi nữa:
- Thế thì Ngài có phải là người, loài người"
Đức Phật (mỉm cười, với lòng Đại Bi và Đại Trí Huệ Bát Nhã) trả lời:
- Ta không phải là người, không phải loài người.
Bà La Môn Drona, bị thức động đậy, hỏi nữa, vì chẳng bao giờ hiểu được và biết được Đức Phật là ai, và Đức Phật mở hé ra đôi chút cho Drona và chúng ta được biết chút ít rằng Đức Phật đã tiêu diệt hết tất cả tập khí, tất cả tham ái, tham dục mà chư thiên, Càn Thát Bà, Dạ Xoa và loài người còn vẫn vướng mắc, vì đã tiêu diệt tất cả phiền não, tất cả tham, sân, và si, mà Đức Phật mới thị hiện giáng sinh, đản sinh là Đức Phật, Thế tôn, Như Lai, Chánh Đẳng Chánh Giác. 
Nếu chúng ta nhìn ngó Đức Phật là một nhân vật lịch sử thì chúng ta đã giới hạn Đức Phật vào thế giới loài người.  Diệu Pháp Liên Hoa Kinh bùng vỡ xuất hiện vào thế giới loài người cũng vì để phá vỡ cái nhìn đui mù của thế gian.
Trong thế giới và thế gian loài người thì Đức Phật đản sinh vào năm 623 trước Tây lịch và nhập Niết Bàn vào năm 543 trước Tây lịch, (theo Hòa Thượng Mahathera Narada) hay năm 563 trước Tây lịch và nhập diệt khoảng 80 năm sau năm 563 (theo học giả Narasu).  Có một điều rõ ràng dứt khoát là Hoàng Đế Asoka đã dựng một cột đài vào năm 239 trước Tây lịch và có ghi khắc rằng Đức Phật đã đản sinh nơi đây, tức là vườn Lumbini gần Kapilavastu, hiện tại là Padeira, ở hướng Bắc vùng Gorakpur, biên giới Ấn độ và Nepal.
Trong tác phẩm Lịch Sử Phật Giáo Ấn Độ, Pháp Sư Trung Hoa, Thánh Nghiêm có đề cập vấn đề niên đại của Đức Phật, (theo bản Việt dịch của Thầy Thích Tâm Trí, nhà x.b. Phương Đông, Sài Gòn, 2008; trang 47-48):
“Mãi đến thời gian gần đây, dựa vào các tư liệu cũng như ở góc độ khảo cứu mà suy luận những gì có liên quan đến niên đại của Đức Phật, thì có đến bảy mươi nhà học giả đưa ra nhiều thuyết khác nhau.  Trong khi các bậc cổ đức ở Trung Quốc lại dựa vào hiện tượng tinh tú cũng như sự chuyển vận của địa cầu được ghi trong cổ sử mà ức đoán rằng Đức Phật đản sinh năm giáp dần, đời Chu Chiêu Vương thứ hai mươi sáu (trước Tây lịch 1027 năm), và Ngài nhập diệt vào đời Chu Mục Vương, thứ năm mươi ba (năm nhâm thân, trước Tây lịch 949 năm).  Thuyết này xin đọc “Lịch Đại Tam Bảo Ký” quyển một (Đại Chánh Tạng -49, trang 23) hoặc trong “Phật Tổ Thông Ký” quyển hai (Đại Chánh Tạng -49, trang 143)”.
Có nhiều vị bác học, giáo sư Phật học và học giả Phật học thường hay có thái độ khoa học, gọi là khoa học, dù cái gọi là “khoa học lịch sử” thường hay bị nô lệ vào những gì gọi là niên đại đích thực của cái gọi là “sử học”, “khoa học lịch sử” và “lịch sử”.
Lịch sử là cái gì" Lịch sử tính và Sử Tính là gì"
Đây không phải là lúc đề cập vào ngày linh thiêng của nhân loại, ngày Phật Đản.
Nếu chúng ta muốn xem Đức Phật là loài người thì điều này cũng nên suy nghĩ cho đứng đắn.  Ngay đến sự tiến bộ vượt bực của tất cả những nền khoa học ở thế kỷ XXI này, vẫn không có khoa học gia hay triết gia vĩ đại nào hiểu được con người là cái gì, hà huống biết được Đức Phật là ai.


Chúng ta chỉ biết được đôi chút về Đức Phật mỗi khi chúng ta hết lòng phát dậy Bồ Đề Tâm và tu hành Đạo Bồ Đề Tâm.  Ngày Phật Đản chỉ đúng nghĩa ngày Phật Đản là mỗi ngày trong đời chúng ta đều là ngày Phật giáng sinh trong lòng chúng ta từng giây phút này đến giây phút khác.  Mỗi đêm và mỗi ngày Đức Phật đều giáng sinh trong lòng chúng ta, mỗi khi lòng chúng ta là lòng Bồ Đề.
Lòng Bồ Đề được thể hiện trong đại thần chú Quán Thế Âm: OM MANI PADME HUM và đại thần chú Phật Mẫu Ta-ra, ứng hóa thân của Quán Thế Âm Như Lai và Quán Thế Âm Bồ Tát: OM TARÉ TUTTARÉ TARÉ SVA-HA- và trong đại thần chú sư phụ Padmasambhava, Liên Sinh Bồ Tát: OM AH HUM VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUM.
Mỗi lần chúng ta trì tụng tất cả những chân ngôn, đại thần chú của chư Phật, chư Đại Bồ Tát thì Bồ Đề Tâm xuất hiện ngay lập tức trong lòng chúng ta.
Muốn hiểu xảo mật ngữ nơi tất cả chỗ thọ sanh và đản sinh của chư Phật và chư Đại Bồ Tát (kinh Hoa Nghiêm, quyển 6 trang 262); trước khi giáng sinh, Đức Phật ở Đâu Suất Thiên Cung, khuyên chư Thiên Tử phát Bồ Đề Tâm (op.cit.,tr.529), phát tâm vô thượng Bồ Đề, lúc sắp giáng sanh hiện ra mười mật sự (op.cit.,tr.535-542), thị hiện ở thai mẹ cũng có mười mật sự (trang 542-547, hán bộ quyển 59), trong Phẩm Ly Thế Gian, xxx viii chúng ta được học về lòng Bồ Đề trong mười điều đản sanh, giáng sanh:
1. Đản sinh vì xa lìa dứt hẳn Ngu Si, do Chánh Niệm và Chánh Tri mà đản sinh;
2. Đản sinh vì để phóng lưới Đại Quang Minh chiếu trùm toàn thể Đại Thiên thế giới;
3. Trụ tối hậu hữu, không còn thân sau nữa mà đản sinh;
4. Đản sinh, mà vẫn bất sanh và bất khởi;
5. Đản sinh, mặc dầu biết tam giới như huyễn mộng;
6. Đản sinh mà đồng lúc hiện thân ở thập phương thế giới;
7. Đản sinh mà thân chứng Nhứt Thiết Chủng Trí;
8. Đản sinh lúc phóng ra tất cả Quang Minh Phật để giác ngộ tất cả thân chúng sinh;
9. Đản sinh vào lúc nhập Đại Trí Quán Sát Tam Muội;
10. Đản sinh làm chấn động tất cả cõi Phật và giải thoát tất cả chúng sinh, tiêu diệt tất cả ác đạo, phủ lấp tất cả ma quỉ và vô lượng chư Bồ Tát đều nhóm họp (thị hiện Bồ Đề Tâm Hạnh);
Tại sao vừa giáng sinh, Đức Phật mỉm cười, lòng tự nguyện thệ mỉm cười vui vẻ" vì sao lúc vừa giáng sinh, Ngài thị hiện đi bảy bước"
1. Thị hiện đi bảy bước để hiện sáng lên Bồ Tát Lực;
2. Vì xả thí bảy Thánh Tài;
3. Vì làm thỏa nguyện Địa Thần;
4. Vì hiện ra tướng Siêu Tam Giới;
5. Vì hiện ra bước chân tối thắng của Bồ Tát, vượt hẳn bước đi tượng vương, ngưu vương và sư tử vương;
6. Vì hiện tướng Đất Kim Cang (Kim Cang Địa);
7. Vì muốn ban cho chúng sinh sức mạnh dũng mạnh;
8. Vì hiện tu hành Thất Giác Bảo;
9. Vì hiện pháp đã thực hiện chẳng do ai dạy cả;
10. Vì thị hiện tối thẳng vô tỉ ở thế gian để điều phục chúng sinh. (trang 551-553)
Về cuộc đời của Đức Phật tôi không muốn đề cập nhiều hôm nay và tôi xin chúng ta nên trì tụng Phật Sở Thành Tán của Tổ sư Mã Minh, còn về tu hành Bồ Đề Tâm thì xin trì tụng hằng ngày Nhập Bồ Tát Hạnh của Tổ sư Tịch Thiên, ShantiDeva.
Còn muốn thu gọn Phật Pháp thì chúng ta đều quen biết một bài kệ kinh Pháp Cú mà tất cả tông phái của Nguyên Thủy, Đại Thừa và Kim Cang Thừa Mật Tông đều trì tụng tu hành:
Chư ác mạc tác
Chúng thiện phụng hành
Tự tịnh kỳ ý
Thị chư Phật Giáo
Chớ làm các điều ác
Gắng làm các việc lành
Giữ tâm ý trong sạch
Ấy, lời chư Phật dạy
(Hòa Thượng Thích Trí Đức dịch)
Không làm việc ác!
Kính làm việc lành!
Làm sạch tâm ý!
Đó, chư Phật dạy
(Hòa Thượng Trí Quang dịch)
Không làm điều ác
Trau dồi việc thiện
Thanh lộc tâm
Đó là Giáo huấn của chư Phật
(Phạm Kim Khánh tiên sinh dịch từ bản dịch chữ Anh của Hòa Thượng Na-rada)
Từ bản dịch chữ Tàu cho đến những bản dịch chữ Việt của chư Hòa Thượng tôn đức, tôi thấy bản dịch nào cũng tuyệt vời trong veo như nắng trong veo của vùng California này.  Cũng nên thêm vào đây bản dịch của Hòa Thượng Thích Minh Châu, Viện Trưởng Viện Đại Học Vạn Hạnh những ngày xưa cũ:
Không làm mọi điều ác
Thành tựu các hạnh lành
Tâm ý giữ trong sạch
Chính lời chư Phật dạy
(Kinh Lời Vàng, kệ 183)
Bản dịch của Hòa Thượng có chổ khác là “mọi điều ác”, tức là tất cả điều ác, Hòa Thượng đã dịch trọn vẹn từng chữ Pa-li, trong sáng, trong veo đầy đủ, vì Hòa Thượng không quên chữ “sabba”, nghĩa là “mọi”, “tất cả” như nguyên tác Pa-li:
Sabbapapassa akaranam
Kusalassa upasampada
Sacittapariyodanam
Etam buddha-na sasanam
(dhammapada, 183)
Muốn hiểu thiện là gì, ác là gì, chúng ta nên trì tụng Kinh Mười Thiện Nghiệp (Kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo đã được Hòa Thượng Trí Quang dịch ra chữ Việt), còn muốn hiểu Tâm Ý Giữ Trong Sạch, chúng ta nên trì tụng Thanh Tịnh Đạo của Buddhaghosa do Sư Bà Trí Hải dịch ra chữ Việt).
Trước khi chấm dứt, cũng nên nhắc lại mười thiện nghiệp mà tất cả chúng ta đều học thuộc lòng từ bao giờ cho đến bây giờ:
1. từ bỏ vĩnh viễn sự làm sát sinh;
2. từ bỏ vĩnh viễn sự làm trộm cướp;
3. từ bỏ vĩnh viễn sự làm tà hạnh;
4. từ bỏ vĩnh viễn sự nói dối trá;  
5. từ bỏ vĩnh viễn sự nói ly gián;
6. từ bỏ vĩnh viễn sự nói thô ác; 
7. từ bỏ vĩnh viễn sự nói thêu dệt;
8. từ bỏ vĩnh viễn sự nghĩ tham dục;
9. từ bỏ vĩnh viễn sự nghĩ giận dữ;
10. từ bỏ vĩnh viễn sự nghĩ tà kiến;
     Hòa Thượng Trí Quang đã giảng rộng sâu rõ ràng hơn nữa:
 1. không làm sát sinh mà làm hộ sinh;
2. không làm trộm cướp mà làm thí xả;
3. không làm tà hạnh mà làm phạm hạnh;
4. không nói dối trá mà nói chân thật;
5. không nói ly gián mà nói hòa giải;
6. không nói thô ác mà nói ái ngữ;
7. không nói thêu dệt mà nói như nghĩa;
8. không nghĩ tham dục mà nghĩ ly dục;
9. không nghĩ giận dữ mà nghĩ từ bi;
10. không nghĩ tà kiến mà nghĩ chánh kiến;
    (Kinh 10 Thiện Nghiệp, Hòa Thượng Trí Quang dịch, tr.121-122)
Xin hồi hướng công đức cho tất cả chúng sinh được chứng ngộ Lòng Bồ Đề, và tôi xin kính cẩn tạ ơn Thượng Tọa Thích Thông Niệm, Viện Chủ Viện Viên Thông, đã cho tôi được thời tiết nhân duyên để làm chút ít Phật sự trong mùa Phật Đản năm nay.
PHẠM CÔNG THIỆN
Bellflower, Califnornia
Ngày 3 tháng 5, 2009

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Năm 1895, Alfred Nobel – nhà khoa học bị ám ảnh bởi cái giá mà nhân loại phải trả từ phát minh của mình – đã để lại di chúc năm 1895 rằng tài sản của ông sẽ dùng để tài trợ các giải thưởng “mang lại lợi ích lớn nhất cho nhân loại.” Đối với Nobel Hòa Bình, ông có phần đặc biệt: giải thưởng này sẽ được trao cho người đã “có nhiều hành động hoặc nỗ lực mang đến sự đoàn kết, hòa bình giữa các quốc gia, bãi bỏ hoặc giảm bớt quân đội thường trực, tổ chức và thúc đẩy các hội nghị hòa bình.” Sứ mệnh chọn lựa được giao cho Quốc Hội Na Uy, có lẽ vì ông tin rằng Na Uy – khi đó còn nhỏ bé và trung lập – sẽ ít bị cám dỗ bởi chính trị quyền lực.
Trung Hoa ngày nay như kinh thành giữa sa mạc, vẻ yên ổn bên ngoài chỉ là lớp sơn son thếp vàng phủ lên nền đá đã rạn. Thế giới đứng ngoài quan sát, vừa lo nó sụp, vừa biết nó trụ lại nhờ ảo ảnh quyền lực và niềm tin vay mượn. Dưới lớp hào nhoáng của “Giấc mộng Trung Hoa” là một cơ đồ quyền lực đang già nua trong chính tuổi trẻ của mình. Bởi sức mạnh của nó không khởi từ niềm tin, mà từ nỗi sợ — và nỗi sợ, tự thuở khai triều lập quốc, chưa bao giờ là nền tảng lâu bền.
Ngày 8 tháng 10 năm 2025, tại tòa án liên bang ở Alexandria, bang Virginia, cựu Giám đốc Cơ quan Điều tra Liên bang (FBI) James Comey không nhận tội đối với hai cáo buộc hình sự. Cáo trạng nêu rằng vào tháng 9 năm 2020, Comey đã nói dối Quốc Hội khi vẫn giữ nguyên lời khai trong buổi điều trần trước đó rằng ông không hề cho phép để lộ thông tin về cuộc điều tra của FBI liên quan đến Hillary Clinton. Theo nhiều bình luận gia pháp lý, từ cánh tả đến cánh hữu, việc truy tố Comey chủ yếu chỉ là do chính phủ liên bang đang cố tình nhắm vào kẻ mà Tổng thống “thấy không vừa mắt.” Comey là người đứng đầu cuộc điều tra nghi án Nga can thiệp bầu cử tổng thống 2016 và bị Trump lột chức vào năm 2017.
Sau sáu ngày đột ngột “bặt tiếng,” chương trình Jimmy Kimmel Live, của MC kiêm diễn viên hài và nhà biên kịch nổi tiếng, đã trở lại với khán thính giả vào tối 23/9/2025. Sự trở lại này, chỉ vỏn vẹn sau gần một tuần bị đình chỉ, không chỉ là tin vui với những người yêu tiếng cười đêm khuya của truyền hình Mỹ, mà còn là một hồi chuông cảnh tỉnh, kéo theo những bàn luận trái chiều, chạm đến cốt lõi của tự do ngôn luận, một trong những quyền thiêng liêng nhất trong thể chế dân chủ.
Texas, mùa thu 2025 – trên khuôn viên đại học giữa vùng đất vốn tự hào là “trái tim bảo thủ của nước Mỹ”, thay vì nghe tiếng lá thu rơi, người ta lại nghe tiếng giày đinh vang vọng, bước chân của bóng ma McCarthyism quay về - phiên bản thế kỷ 21 - trở lại giảng đường với tốc độ và sự kinh dị của thời đại kỹ thuật số. Ngày 9 tháng 9, trên bục giảng của trường Texas A&M University, giáo sư Melissa McCoul trong giờ văn học thiếu nhi, dùng hình một con kỳ lân tím để nói với sinh viên rằng bản sắc con người không chỉ có hai nửa nam–nữ. Một sinh viên giơ tay hỏi: “Điều này có hợp pháp không?” và viện dẫn sắc lệnh mà Tổng thống Donald Trump ký hồi tháng Giêng, tuyên bố chỉ có hai giới tính sinh học. Bà McCoul đáp bằng lý lẽ, không viện dẫn chính trị. Nhưng một chiếc điện thoại trong lớp đã ngầm quay lại hình ảnh. Và chỉ ít lâu sau, cả nước đều xem đoạn clip ấy – không phải để học, mà để phán xét.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi thể chế, phương Tây và Việt Nam đang phải đối diện trước những thách thức nghiêm trọng về cải cách chính sách để cho phù hợp với nhu cầu của thời đại mới, nhất là vai trò của pháp luật. Pháp luật là nền tảng thiết yếu cho sự vận hành ổn định và công bằng của xã hội. Là hệ thống quy phạm điều chỉnh hành vi con người, pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân và tập thể mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững. Trong xã hội hiện đại, vai trò của pháp luật được thể hiện rõ nét qua các lĩnh vực như bảo vệ an ninh quốc phòng, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm quyền tự do cá nhân, phát triển phúc lợi xã hội, và thúc đẩy tinh thần hợp tác cũng như hội nhập.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Quantico, Virginia, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth bước lên sân khấu trước hàng trăm tướng và đô đốc được triệu tập từ khắp nơi trên thế giới. Ông tuyên bố sẽ “cải tổ văn hóa quân đội” bằng mười chỉ thị mới, nhằm quét sạch cái mà ông gọi là “rác rưởi thức tỉnh” và khôi phục “tinh thần chiến binh”. Cụm từ ấy – nửa ca tụng bạo lực, nửa tán dương cơ bắp – nay đã trở thành thương hiệu chính trị của Hegseth. Trong cuốn Cuộc Chiến Chống Lại Những Chiến Binh (2024), ông cho rằng việc phụ nữ được đưa vào các vai trò chiến đấu đã “làm cạn kiệt” tinh thần này, khiến quân đội Hoa Kỳ “ít sát thương hơn.” Nghe qua, người ta tưởng quân đội chỉ tồn tại để đong máu đếm xác.
Ông bà xưa đã nói, nắm thì “nắm kẻ có tóc ai nắm kẻ trọc đầu.” Cách nói dân gian này rất cụ thể và dễ hình dung, người có tóc thì dễ bị nắm, bị túm, còn người trọc đầu thì không thể nắm được. Mang câu nói này vào chính trường Mỹ hiện tại, quả là khôi hài, nhưng không kém màu bi kịch. Nó phản ánh một sự thật trần trụi và không thể tránh khỏi: Quyền lực, chính sách, sắc lệnh hành pháp, các cuộc chiến pháp lý và ‘tuổi thọ’ chính trị của người đứng đầu nhánh hành pháp đang phụ thuộc vào sự phục tùng của các nhà lãnh đạo và những tài phiệt. Họ là ai? Họ là một mạng lưới của các quan chức, nhà lập pháp, giám đốc điều hành truyền thông, nhà tài trợ…, những người đã chọn chọ họ một thế đứng, xuôi theo những gì tổng thống muốn.
Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đang đánh một đòn nguy hiểm: huy động các văn phòng công tố đi điều tra mạng lưới từ thiện Open Society Foundations của gia đình Soros, một quỹ từ thiện quốc tế, nổi tiếng với việc tài trợ cho các dự án dân chủ, giáo dục và nhân quyền trên khắp thế giới. Danh sách cáo buộc nghe cứ như “vật lạ”: từ đốt phá đến tài trợ khủng bố. Open Society Foundations lập tức phản đối, khẳng định mình hoạt động hợp pháp, và nhắc lại điều mà bất cứ người tỉnh táo nào cũng hiểu: khi chính quyền có thể tùy tiện lấy một nhóm dân sự làm vật tế, thì quyền của mọi nhóm khác cũng chẳng còn gì bảo đảm.
Trong nhiều thập niên qua, giải pháp hai nhà nước luôn được xem là phương án khả thi nhằm mang lại hòa bình cho khu vực Trung Đông. Tuy nhiên, tiến trình này vẫn chưa đạt được kết quả cụ thể. Gần đây, cuộc tranh luận về việc công nhận nhà nước Palestine đang có những chuyển biến mới khi Pháp và Ả Rập Xê Út tổ chức một hội nghị quốc tế tại New York, ngay trước thềm Đại hội thường niên của Liên Hiệp Quốc.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.