Hôm nay,  

Kinh Tế Thế Giới 2010

30/12/200900:00:00(Xem: 9450)

Kinh Tế Thế Giới 2010

Mai Vân RFI và Nguyễn Xuân Nghĩa

Bong bóng đầu cơ và thất nghiệp : mối đe doạ cho các nền kinh tế trên đà ra khỏi suy thoái năm 2010...

Sau một năm đen tối, các nhà kinh tế trước ngưỡng 2010 đều lạc quan khẳng định tình hình dứt khoát sẽ tươi sáng hơn. Cơ sở cho những đánh giá lạc quan này là gần như hầu hết các quốc gia rơi vào suy thoái, đều đang nối lại với tăng trưởng, ngoại trừ một số nước như Bồ Đào Nha, Island, Ireland. Dự báo cho năm 2010 đang đến, tăng trưởng Hoa Kỳ sẽ hơn 2%, khu vực Châu Âu yếu nhất nhưng cũng được gần 1%, khoẻ mạnh nhất là Châu Á, với Trung Quốc dự báo tăng 9%, Ấn Độ 7%, Việt Nam 5%, và Châu Mỹ La tinh dẫn đầu là Brazil với tăng trưởng dự báo 4%.
Thành quả đạt đươc, theo giới chuyên gia, chủ yếu là nhờ các kế hoạch kích thích kinh tế mà các nước từ Châu Ấu, Châu Mỹ, Châu Á đã đồng loạt đưa ra. Tuy nhiên các nhà phân tích còn rất thận trọng : kinh tế toàn cầu dù triệt thoái khỏi suy thoái nhưng chưa hẳn lành bệnh, và có thể rơi trở lại vào khủng hoảng.
Mối đe doạ lớn là bong bóng đầu cơ. Thất nghiệp rất cao cũng sẽ đè nặng lên đà vực dậy kinh tế. Theo số liệu của tạp kinh tế Pháp L'Expansion, số công việc làm mà khủng hoảng vừa qua đã hủy diệt lên đến 6 triệu ở Mỹ, riêng Pháp cũng đã có đến 500.000, và sẽ có thêm 200.000 người khác mất việc làm vào năm tới đây. Để hiểu thêm tình hình sắp đến, vững vàng đến đâu, thách đố như thế nào, RFI đã đặt một số câu hỏi với chuyên gia kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa tại California, điểm qua những dự báo về viễn ảnh kinh tế 2010.
RFI: Xin kính chào anh Nguyễn Xuân Nghĩa. Nhìn chung vào tình hình kinh tế cuối năm 2009, giới nghiên cứu kinh tế thế giới đều dự đoán rằng năm tới có vẻ khả quan hơn dù còn nhiều triệu chứng bấp bênh. So với các chu kỳ suy thoái trước thì lần này tình hình có vẻ nhẹ hơn cho nên người ta đã hy vọng là năm tới sẽ tốt hơn" Và thưa anh có phải đó là nhờ các kế hoạch kích thích kinh tế không"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Vụ Tổng khủng hoảng thời 1929-1933 có góp phần đưa tới Thế chiến II. Từ sau Thế chiến II, kinh tế thế giới cũng có lúc thịnh lúc suy nhưng lần này mới thật là một vụ suy thoái toàn cầu vì các nền kinh tế đều hội nhập buôn bán với nhau một cách quy mô và sâu xa chưa từng thấy. Tuy nhiên, cũng vì có hội nhập và đều e sợ một vụ tổng khủng hoảng nên từng nước đều lập tức có biện pháp ứng phó và còn cố gắng phối hợp với nhau để cùng ứng phó. Nhờ vậy mà các nước đã đẩy lui nguy cơ khủng hoảng và lần lượt đụng đáy rồi hồi phục.
- Trả lời câu hỏi thứ hai thì trong lịch sử kinh tế thế giới chưa khi nào các quốc gia đã đồng loạt phản ứng như vậy, với một lượng tiền được bơm vào kinh tế lên đến con số kỷ lục. Nói cho dễ hiểu thì khối tiền lệ lưu hành trong kinh tế gần như tăng gấp đôi. Còn về cụ thể thì tùy tình hình quân bình vĩ mô, có nước thiên về giải pháp tiền tệ là cắt lãi suất tới tận sàn, hạ mức dự trữ pháp định để khuyến khích ngân hàng cho vay dễ dàng hơn, thậm chí in tiền bơm vào kinh tế, gọi là "tăng mức lưu hoạt có định lượng" là chuyện xưa nay mới chỉ thấy áp dụng tại Nhật năm 2001. Có quốc gia khác thì thiên về giải pháp ngân sách như gia tăng công chi và/hoặc giảm thuế, nếu chưa bị bội chi ngân sách quá nặng. Nhiều nước thì áp dụng cả hai ba loại biện pháp áy. Riêng trong quan hệ giữa các nước với nhau thì xứ này còn muốn xứ khác tăng chi để kích hoạt kinh tế hầu cho mình đỡ phải gánh việc đó, là chuyện xảy ra khi Chính quyền Barack Obama muốn các nước Âu Châu phải tăng chi nhiều hơn và thực tế là bị Âu Châu cự tuyệt.
RFI : Dạ thưa anh, trong việc ra khỏi suy thoái, nếu mà nhìn từng khu vực thế giới, các nhà kinh tế dự báo như thế nào cho năm tới "
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Nói chung, người ta dự báo là kinh tế thế giới sẽ tăng trưởng bình quân là 4% trong năm tới. Nếu ta nhớ đến mức tiêu chuẩn là "dưới 3% có nghĩa là thế giới suy trầm" thì còn số 4% này là điều đáng mừng, nhưng vẫn còn thấp hơn trung bình của năm năm trước khi bị suy trầm, là 5%. Nôm na là đã hết bệnh nhưng chưa bình phục như trước.
- Thứ hai, tỷ lệ 4% là kết quả tổng hợp của hai khối kinh tế. Mười nước đã công nghiệp hoá thì chỉ đạt tốc độ bình quân có 2%, trong khi các nước đang phát triển có hy vọng đạt được 6,5%. Điều ấy có nghĩa là các nền kinh tế công nghiệp hoá sẽ là đầu máy rất yếu cho thế giới và nước nào mà trông cậy vào việc xuất khẩu cho các nền kinh tế đó để ra khỏi suy trầm thì sẽ thất vọng.
- Trong 10 nước công nghiệp hoá, Hoa Kỳ sẽ hồi phục nhanh nhất nhưng không mạnh vì chưa đạt mức 3% mà chỉ chừng 2,8% là nhiều. Âu Châu đi sau với tỷ lệ èo uột từ 1,2% đến 1,4% thôi và thất nghiệp sẽ còn tăng trong khi thất nghiệp tại Mỹ có hy vọng giảm dần, dù là rất chậm. Riêng Nhật Bản thì còn bị suy trầm và sẽ là quốc gia có vấn đề, với một đà tăng trưởng có 0,7%. Đó là lý do vì sao Nhật còn phải nghĩ đến nhiều biện pháp kích thích kinh tế trong khi các nước khác bắt đầu triệt thoái khỏi tình trạng gọi là bất thường hiện nay bằng cách hút bớt tiền ra khỏi kinh tế để không gây ra nguy cơ bong bóng đầu tư hay lạm phát, hoặc cả hai.
RFI: Thưa anh nếu như vậy thì có lẽ hy vọng của thế giới nằm tại các nước đang phát triển, nhất là tại Châu Á "
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Thưa chỉ một phần nào thôi. Chúng ta nên nhớ là trong tốc độ bình quân toàn cầu là 4% thì tốc độ của các nước giàu chỉ có chừng 2%, các nước đang phát triển thì 6,5%. Trong khối này, có Trung Quốc và Ấn Độ dẫn đầu với 10% và 8%, có Liên bang Nga sẽ đạt hơn 5% nhưng có thể lại tuột đáy - tức là bị suy trầm nữa, thậm chí suy thoái và khủng hoảng chính trị - và có Brazil với chừng 4,8%. Vấn đề là các nước đang phát triển này phải có khả năng cải cách từ căn bản đề mở rộng sức tiêu thụ nội địa thay vì lệ thuộc quá nhiều vào xuất khẩu sang các nước công nghiệp hoá. Việc cải cách thật ra đòi hỏi một nỗ lực thay đổi tư duy và cơ chế.


- Trong khi ấy, các nước này cũng gặp bài toán cực kỳ tế nhị là triệt thoái khỏi suy thoái, nghĩa là hút bớt tiền đã bơm ra, và làm cho khéo để khỏi rơi lại vào suy trầm, nếu không triệt thoái thì tiền sẽ lại bơm vào bong bóng, như người ta đang thấy tại Trung Quốc và Việt Nam.
RFI: Riêng về hai nước này, nhũng thách thức gì là quan trọng nhất trong năm tới"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Vì cả hai đều tận dụng giải pháp tín dụng là bơm tiền qua ngân hàng vào kinh tế trong một cơ chế vẫn chưa tự do thông thoáng nên sẽ gặp hai nguy cơ là bong bóng đầu cơ và ngân hàng suy sụp dưới núi nợ xấu. Cả hai lại duy trì chính sách ngoại hối có kiểm soát là buộc giá đồng bạc vào tiền Mỹ theo tỷ giá cố định và bất thường, nên những khó khăn ấy dẫn tới vấn đề ngoại hối. Đó là mâu thuẫn về trị giá đồng Nhân dân tệ của Trung Quốc với các nước khác và gây tranh chấp về mậu dịch khi kinh tế của các nước công nghiệp hoá vẫn còn yếu.
- Tại Việt Nam, chế độ hối đoái ấy - lẫn hậu quả của suy trầm toàn cầu nên đầu tư và tiền trợ giúp từ nước ngoài gửi về đều giảm - rất dễ gây ra khủng hoảng ngoại hối và cả nạn lạm phát.
RFI : Thưa anh, nhìn chung thì ảnh hưởng kinh tế Hoa Kỳ đối với thế giới sẽ ra sao, có còn là đầu máy kinh tế cho Châu Á như trước đây hay không "
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Hoa Kỳ đang ra khỏi suy trầm nhưng tình hình còn bấp bênh và niềm tin của thị trường chưa phục hồi nên ngân hàng trung ương sẽ rất thận trọng khi điều chỉnh lãi suất kể từ giữa năm tới trở đi để ra khỏi tình trạng lãi suất âm như hiện tại. Trong hoàn cảnh đó, kinh tế xứ này khó làm đầu máy tăng trưởng cho các nước như trước đây. Huống hồ các kế hoạch tăng chi để cải tạo xã hội sẽ khiến xứ này mắc nợ tới mức kỷ lục và dân Mỹ sẽ chi tiêu dè xẻn hơn vì sự bất trắc đó. Vì vậy, thị trường nhập khẩu để tiêu thụ sẽ còn yếu và mâu thuẫn về mậu dịch càng dễ xảy ra với Chính quyền đang bị sức ép rất mạnh của xu hướng bảo hộ mậu dịch.
- Ngoài ra, ta không quên một vấn đề là giá xăng dầu tăng vọt trong năm 2008 có góp phần gây ra suy trầm. Nếu bất ổn bùng nổ tại Iran vì khủng hoảng bên trong và vì hồ sơ võ khí hạch tâm với bên ngoài mà dẫn tới cấm vận hay giao tranh tại eo biển Hormuz thì nạn dầu thô lên giá sẽ lại đẩy kinh tế toàn cầu vào cơn biến động khác trong năm tới. Vì vậy, ta chưa nên nổ xâm banh ăn mừng vội!
RFI: Nếu phải tóm lại tình hình kinh tế thế giới năm tới thì anh sẽ thu gọn trong một câu như thế nào "
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Tôi nghĩ là phải triệt thoái ra khỏi nạn suy thoái nhưng mà triệt thoái cho khéo, phải cân nhắc cho kỹ, và cái yếu tố quan trọng nhất là niềm tin của thị trường. nếu thị trường có tin tưởng, thì tín dụng có thể hoạt động mạnh một cách tự phát, lúc đó chính quyền có thể rút bớt tiền trở về được. Nếu mà không có thì chúng ta vẫn còn gặp rất nhiều bấc trắc.
RFI: Thưa anh, các chính phủ phải làm thế nào để tạo lại niềm tin cho các thị trường hầu ra khỏi suy thoái một cách vững vàng"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Tôi nghĩ đầu tiên hết là trong cái hệ thống ngân hàng. Tại vì từ khủng hoảng tài chính nó mới lây lan sang kinh tế. Nếu các hệ thống ngân hàng được chấn chỉnh lại, có thể hoạt động lại bình thường, và với một hệ thống kiểm soát tinh vi hơn nhưng đồng thời không bóp nghẹt sáng kiến của họ, thì có thể giúp giải tỏa tình trạng ách tắc tín dụng hiện tại.
- Nếu ách tắc tín dụng hiện tại vẫn còn kéo dài, thì các hệ thống ngân hàng trung ương của cả bên Âu Châu lẫn bên Hoa Kỳ, và các nước khác nữa vẫn chưa dám hút bớt tiền ra, và khi đó chúng ta vẫn lại thấy ra tình trạng rất bấp bênh: tiền ở nơi cần thì không có và những nơi không cần thì vẫn được bơm vào, lại có thể dẫn lên những nguyên nhân đưa đến khủng hoảng khác trong tương lai, tức là lại tạo nên những bong bóng và khi bóng bể thì chúng ta lại có nạn suy trầm.
RFI: Về chính sách kinh tế, hiện nay nhiều người đề xuất là từ Châu Âu, Châu Á, Châu Mỹ, tất cả đều phải tập trung vào thị trường nội điạ. Anh nghĩ thế nào về đề xuất này "
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Cái điều đó đúng, và có thế người ta mới tái lập lại quân bình gọi là toàn cầu. Tức là xưa nay các nước đang phát triển đều thắt lưng buộc bụng để bán hàng vào các nước đã phát triển. Và các nước đã phát triển thì mua hàng hóa của các nước kia với giá rẻ, và làm cho cà hai khối đều lệ thuộc với nhau và bây giờ thì cái khả năng mua hàng các nước công nghiệp hoá đã giảm, thành ra nếu mà họ không có tạo điều kiện cho cái thị trường nội địa là cái đầu máy chính thì sẽ gặp khó khăn.
- Ngược lại các nước đang phát triển, nhất là tại các nước Á Châu tập trung vào chiến lược lấy xuất khẩu làm đầu máy, thì cái xuất khẩu vào ba nền kinh tế lớn, Hoa Kỳ, Châu Âu và Nhật Bản, đều èo uột như chúng ta vừa thấy, thì các nước đang phát triển sẽ thấy là phải có nhu cầu giải phóng cơ chế sản xuất và phân phối trong nước để cho thị trường nội điạ là đầu máy chính thay vì chỉ có trong cậy vào thị trường xuất khẩu thôi. Mà cái tình trạng gọi là tái lập quân bình này đòi hỏi nhiều biện pháp cải cách mà có thể rằng là một hai năm mới có thể thấy kết quả.
- Do đó tình hình trong năm tới không còn u ám như năm 2009, nhưng mà nó vẫn chưa sáng sủa, cho đến khi các nước rút tỉa được các bài học của cái trận gọi là tổng suy thoái vừa rồi.
RFI: Xin cám ơn kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa tại California.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.