Hôm nay,  

Phật Đản: Đức Phật Dạy Gì?

28/05/201000:00:00(Xem: 8228)
Phật Đản: Đức Phật Dạy Gì"  
                       
Tuyết Mai
Hằng năm vào ngày rằm Tháng Tư Âm Lịch (cuối Tháng Năm duơng lịch năm nay) hằng triệu Phật tử trên thế giới, từ thành thị đến thôn quê, từ rừng sâu đến biển cả, ở các nước Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Trung hoa, Đài Loan, Tây Tạng,  Nhật Bản, Đại Hàn, Thái Lan, Việt Nam, Cao Miên, Lào…  nô nức đến chùa đón mừng ngày Khánh Đản. Phật tử hân hoan đến chùa  lễ Phật để tỏ lòng kính ngưỡng sự  hóa độ của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Trước khi tìm hiểu Đức Phật dạy gì, nên nói qua tiểu sử. Đức Thích Ca Mâu Ni  là một Thái Tử, có tên là Tất Đạt Đa, họ là Cù Đàm, sống ở Miền Bắc Ấn Độ vào thế  kỷ VI trước Tây Lịch. Thân phụ Ngài là Quốc Vương Tịnh Phạn, cai trị bộ tộc Thích - Ca, ở xứ Nepal ngày nay. Mẹ Ngài là Hoàng Hậu Ma-Gia. Ngài kết hôn rất sớm, năm 16 tuổi  với Công Chúa Da-Du-Dà-La và có một con là La Hầu La.
Thái tử Tất Đạt Đa sống trong cung vàng điện ngọc với đầy đủ những xa hoa vật chất, khi có dịp ra ngoài thành thấy cảnh sống khổ sở của kiếp người như già, lão, bệnh, tử… Ngài quyết ra đi tìm con đường giải thoát khỏi cảnh khổ.  Năm 29 tuổi Ngài rời  bỏ cung điện, đi vào rừng sâu tầm đạo.
Sau sáu năm khổ hạnh tu tập với nhiều đạo sư, Ngài  không thỏa mãn với những lý thuyết cũng như cách hành đạo khổ hạnh của họ. Ngài đã vạch ra  một con đường riêng cho mình. Rồi một đêm kia dưới cội bồ đề, bên bờ sông Ni-liên-thiền Ngài được chứng đạo (enlightment). Từ đó Ngài  được tôn xưng là Phật Thích Ca Mâu Ni,  năm đó Ngài 35 tuổi.
Sau đó Ngài đi giáo hóa suốt 45 năm khắp nơi ở Ấn Độ, năm 80 tuổi Ngài nhập diệt ở Câu-thi-na. Ngài đã nhập diệt trên hai ngàn năm trăm năm nhưng đã để lại cho nhân loại một  kho tàng giáo lý vô cùng thâm sâu mầu nhiệm; không những phù hợp với sự phát triển của khoa học hiện đại mà còn vượt xa hơn nữa mà khoa học cần phải tìm hiểu và khám phá để minh xác giáo lý của Ngài là chơn lý.
Khoa học gia vĩ đại của thế kỷ 20  Albert Einstein đã  tuyên bố: “Nếu có một tôn giáo nào có thể thích nghi với nhu cầu  của khoa  học hiện đại thì đó là Phật Giáo. Phật Giáo không cần duyệt xét quan niệm của mình để cập hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo không phải từ bỏ những quan niệm của mình để chấp nhận khoa học. Phật giáo là chiếc cầu  nối liền tôn giáo và những tư tưởng khoa học. Chiếc cầu Phật Giáo đã kích thích con người khám phá những tiềm năng lớn lao nằm sâu kín trong chính nó và trong môi trường sống chung  quanh nó. Phật giáo  siêu việt qua thời gian và mãi mãi có giá trị.”
Đức Phật Thích Ca  đã dạy phật tử những gì" 
Phật dạy  “Từ, Bi, Hỷ, Xả” và tận diệt “Tham,  Sân,  Si” vì đó là nguồn gốc của khổ đau.  Phật cũng dạy bản thể của vạn  vật là VÔ THƯỜNG, đổi thay trong từng sát na ( một phần ngàn giây), VÔ NGÃ là không có tự tính. Vạn vật trên thế gian này là do nhân duyên hợp thành, không có chủ thể cố định. Do không có thực thể cố định nên vạn vật là giả tạm.
Giáo lý Duy Thức, Vi Diệu Pháp là những môn học quan sát, nghiên cứu  về tâm và những phương pháp chuyển hóa những tâm niệm xấu ác thành tâm niệm lành mạnh, chuyển hóa một con người phàm phu trở thành một vị thánh hiền.
Đức Phật cũng giải thích tại sao chúng ta  có mặt trên đời và khi chết thì đi về đâu" Tại sao cùng sinh ra trên đời mà lại có ngừơi giàu, kẻ nghèo, người sang, kẻ hèn, kẻ thông minh người ngu dốt, người đẹp kẻ xấu, ngừơi sống lâu kẻ chết yểu vv.. Sở dĩ có sự  sai khác giữa chúng sinh là do  “Nhân -  quả”  chi phối. Gieo nhân nào thì gặt quả nấy. Trồng cam, có quả cam; trồng quít, có quả  quít. 

 Phật thấy rõ nguyên nhân của dòng sinh tử là do động lực của  vô minh. Từ vô minh mà phát sinh ra Hành, rồi phát sinh Thức,  phát sinh Danh sắc, từ Danh Sắc phát sinh Sáu căn: xúc, thọ, ái, chấp, thủ, hữu, sanh. Từ sanh đưa đến  già, bệnh, chết. Nếu chặt đứt được một trong mười hai  nhân duyên  thì dòng sanh tử sẽ chấm dứt.
 Phật dạy: Vạn vật do duyên hợp mà có, duyên tan sẽ trở về KHÔNG. Chữ “Không” vô cùng quan trọng trong Đạo Phật. “Không” không có nghĩa đối nghịch với “có” , mà  KHÔNG đây là không chủ thể, không cố định, ví như đám mây, tụ đó rồi tan đó, có đó rồi không đó, thương đó rồi ghét đó. Vạn vật là hư ảo. “Có “ và “không” đều là giả tạm. Phật dạy: “ thấy được lý nhân duyên là  thấy được chân lý. Nếu chúng ta chấp “giả” là “thật”  thì chúng ta là người si mê.
Chữ “Nhẫn” cũng rất quan trọng trong đạo  Phật. Kinh Pháp Cú có câu :” Thắng một vạn quân không bằng thắng chính mình. Thắng chính mình mới là chiến công oanh liệt”. Trong cuộc sống hằng ngày chúng ta gặp rất nhiều điều bất đắc ý. Nếu chúng ta không có sức chịu đựng, không có sự kiên nhẫn thì chúng ta sẽ đau khổ triền miên.  Đức Phật dạy: “ chỉ một đóm lửa sân nhỏ sẽ đốt cháy cả một rừng công đức”. Nếu chúng ta luôn nghỉ tới đạo đức,  nghỉ tới công phu của mình tu tập thì đừng để những cơn nóng giận khởi lên.
Nhẫn nhục với người: Đối với những chuyện phiền lòng  mà chúng ta bỏ qua hết, không buồn giận thì đó là chúng ta nhẫn nhục với người. Chúng ta cũng phải nhẫn với hoàn cảnh, phải chấp nhận những khó khăn trong cuộc sống.  Gương nhẫn nhục và từ bi được thể hiện qua câu chuyện trong dân gian về  Đức Quan Thế  Âm bị nghi oan. Đức Quan Thế Âm không hề chứng minh. Với lòng từ bi và nhẫn nhục cuối cùng Ngài được tôn thờ là một vị Phật.
Có hằng ngàn pháp môn (cửa) để vào nhà Phật. Lời Phật dạy quý giá vô cùng, nếu chúng ta cố gắng ứng dụng những lời Phật dạy vô đời sống hằng ngày thì chính mình bớt khổ đau và những người chung quanh cũng nhờ ơn phước này mà được hạnh phúc lây. Chúng ta tu theo Phật là để được “giải thoát”. Không phải đợi đến sau khi chết mới được giải thoát khỏi luân hồi sinh tử  mà  hãy phấn đấu, tự thắng,  để tự giải  thoát mình ra khỏi những cuồng si, vọng tưởng, sân hận,  phiền não trong từng giây phút sống hiện tại.  “Mỗi bước đi trong cuộc hành trình là chính cuộc hành trình” . Nói khác đi đời sống của chúng ta là nối kết của những giây phút sống hiện tại. Thật là tội nghiệp cho những ai bỏ quên, đánh mất hiện tại cho những mộng tưởng hão huyền xa xôi.
Đức Phật không bao giờ tự nhận mình là “Đấng Toàn Năng”, tạo ra vũ trụ, mà Ngài tuyên bố một cách rất bình đẳng “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành” (nếu đi theo đạo -  con đường Phật dạy).  Nên tu tập bằng cách giữ giới và thiền định. Khi  thân tâm được an lạc thì sẽ phát sinh huệ (trí, định, tuệ).  Nhờ phát huệ, Đức Phật đã thấy biết sự việc đúng như thật. Còn chúng sinh vì vô minh thấy và biết không đúng nên đau khổ và tạo nhân  bất thiện nên phải chịu nghiệp  báu khổ đau và sinh tử luân hồi. Mục đích duy nhất của Phật hiện ra trong đời là chỉ cho chúng sanh “ngộ nhập tri kiến Phật”, tức thấy biết như Phật để giải thoát sinh tử và chấm dứt khổ đau.
Đức Phật Thích Ca đã rời bỏ vật chất xa hoa, cung vàng điện ngọc,  tu tập sáu năm trong rừng già và 49 ngày nhập định dưới cây bồ đề, Đức Phật đã thành  Phật (enlightment) ngay lúc tim còn đập, máu còn chảy, còn thở ra thở vào như chúng ta trên thế gian. Chúng ta cũng có thể thành Phật,  hãy cố tận diệt THAM SÂN SI, phát huy TỪ BI HỶ XẢ như lời Phật dạy.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.