Hôm nay,  

Tiếng Hát Cho Tự Do

09/10/200800:00:00(Xem: 9539)

<"xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com:office:office" /> 

 Đôi uyên ương PVH và Nam Dao của thập niên 70 tại Paris. Và Phan Văn Hưng với ca khúc về dân tộc.

 

Việt Hải

 

"Việt Nam bao năm chìm trong bóng đêm dầy

 

Vẫn kiên cường nuôi chí phục hưng

 

Việt Nam vươn lên từ những tấm thân gầy

 

Nguyện xây đắp thương yêu tràn đầy

 

Người hỡi đứng lên giành quyền sống làm người

 

Dù máu xương đọa đầy vẫn tiền tới

 

Ngày đã đến cho trang sử mới ra đời

 

Tiếng non sông giục mời..."

 

(Bài Việt Nam Vinh Quang, thơ Nam Dao, nhạc Phan Văn Hưng)

 

Phan Văn Hưng ca cho cả một dân tộc Việt Nam trong khát vọng tự do, người dân hiền hòa bị chế độ Cộng Sản thống trị miền Bắc từ năm 1954 và toàn lãnh thổ vào năm định mệnh 1975. Lời thơ bài hùng ca này do hiền thê của anh viết. Nhà văn Nam Dao đã viết lên hàng trăm bài văn biên khảo chính trị, những bài tham luận về những cái xấu xa của chính sách độc đoán của nhà cầm quyền Cộng Sản. Một đất nước Việt Nam vinh quang về nguồn gốc lịch sử tạo nước và giữ nước của tiền nhân. Thế mà ngày hôm nay đất đai, lãnh hải bị nhà cầm quyền đem dâng nộp cho ngoại bang để được yên thân hiếp đáp và cai trị tiếp nhân dân trong hà khắc, bốc lột, từ bốc lột sức lao động của người dân đền bốc lột đất đai, nhà cửa, ruộng vườn, những nguyên nhân gây ra nạn dân oan khiếu kiện.

 

Phan Văn Hưng sáng tác từ nguồn thơ của người bạn đời đồng chia sẻ những lý tưởng sống trong đời với anh, những tiếng lòng nhân bản nhưng bất khuất:

 

"Việt Nam oai linh nghìn thu sáng danh ngời

 

Đất Tiên Rồng nuôi chí hùng anh

 

Việt Nam dang tay thành tâm khắp nhân loại

 

Cùng thế giới đi xây tình dài

 

Việt Nam thắp cao ngọn đuốc ấm cho đời

 

Bằng trái tim vun trồng thời đại mới

 

Hồn sông núi vang trong mạch sống giống nòi

 

Bước đi trong miệt mài...."

 

Tôi nghe link nhạc “Việt Nam Vinh Quang”:

 

http://www.youtube.com/watch"v=cQcYbRaCGYw

 

Đây chính là bài hát làm kiêu hãnh Viêt Nam trong tôi, tiếng gọi tình thương quê hương và tình yêu đất nước dâng cao dạt dào. Tôi yêu lời ca của bài quốc ca Việt Nam Tự Do của chúng ta và bài hùng ca "Việt Nam, Việt Nam", nhưng rồi khi nghĩ đến những tác giả của nó tâm tư dâng lên nỗi cay đắng, muộn phiền.

 

Nhạc Phan Văn Hưng được xem như loại nhạc hưng ca, hay loại nhạc du ca, phần nhiều những tác phẩm anh sáng tác nói lên nỗi ngậm ngùi cơ cực của quê hương, anh đem những chuyện thực trong đời sống viết thành ca khúc, những chuyện vô lý của xã hội Cộng Sản vào lời ca tiếng hát như loài chim quốc sống xa quê hương, quốc nhớ nhà dâng lên tiếng hót cô liêu trong sầu bi, mang những lời ca như tiếng khóc thổn thức, những tình tự đầy trắc trở trên quê hương thống khổ.

 

Đôi nét về tiểu sử Phan Văn Hưng, anh sinh năm 1950 tại Hà Nội. Năm 1954 theo gia đình di cư vào Nam. Sau khi đậu tú tài II anh được học bổng sang Pháp du học năm 1969 và tốt nghiệp về Kỹ Sư Cơ Khí và Hầm Mỏ. Bảy năm sau khi mất miền Nam, gia đình anh quyết định rời Pháp để sang định cư tại Úc, Phan Văn Hưng đã sinh hoạt với Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam tại Paris với Trần Văn Bá. Trong suốt 10 năm sinh sống ở Pháp, ngoài những sáng tác và trình diễn âm nhạc, anh còn là sáng lập viên của tổ chức văn học "Văn Đoàn Lam Sơn" và của tờ báo "Nhân Bản", một tờ báo Việt ngữ mang lập trường quốc gia dân tộc nhân bản tại Âu Châu.

 

Như Phan Văn Hưng tâm sự anh chịu ảnh hưởng nhiều nhạc sĩ ngoại quốc khi học nhạc và guitar, tôi nghe bài hát "Sinh Ra Làm Người Việt Nam" mang âm hưởng nhạc của Cat Stevens. Tôi gần gủi với tiếng hát ngân dài của anh quyện vào âm vang tiếng nhạc pop rock ngày xưa. Nhưng tiếng ngân dài trong bài ca này nói lên nỗi xót xa của tuổi trẻ Việt Nam quê tôi sao quá gian truân. Không gian ngõ tối không nước không đèn. Vòng tay âu yếm của mẹ hiền Việt Nam trong sầu thương, với đôi tay khẳng khiu, đôi tay thật buồn. Mẹ ơi, vòng tay âu yếm  đôi tay thật buồn... Em sinh ra em làm người Việt Nam, và sinh trong cuộc lầm than. Sinh ra trong đời bấp bênh gian truân vô vọng mmm mmm... Tiếng hát của Phan Văn Hưng cất lên như tiếng khóc cho một dân tộc trong lầm than, anh khóc thay cho Mẹ Việt Nam, anh hát cho hàng trăm ngàn em bé thơ ngây hay tuổi trẻ Việt Nam bị mua bán thân xác hay sức lao động của các em từ Cam Bốt, Trung Quốc, Đài Loan đến Hàn Quốc.

 

Nhạc Phan Văn Hưng là tiếng lòng chia sẻ kiếp sống thống khổ của người dân tôi. Hình như bờ mi các em đang khóc từ nơi chân trời xa xăm, tiếng ngân dài của Phan Văn Hưng nơi cuối bài cho một cảm nhận bi thương để tim tôi ray rứt, lạc loài, và để mắt tôi bỗng cay nhạt nhòa...

 

 "Em sinh ra em làm người Việt Nam

 

Trong gian ngõ tối không nước không đèn

 

Vòng tay âu yếm của mẹ sầu thương

 

Đôi tay khẳng khiu, đôi tay thật buồn

 

Vòng tay âu yếm (mẹ ơi) đôi tay thật buồn

 

Em sinh ra em ở chợ Nghệ An

 

Em buông thuốc trắng ai hay bên đường

 

Đời trong xó rãnh đã quên tình thương

 

Đôi mắt già nua, đôi mắt lạnh lùng

 

Cặp mắt thờ ơ, (người ơi) đâm nhói vào hồn

 

Đ.K.

 

Em sinh ra em làm người Việt Nam

 

Và sinh trong cuộc lầm than

 

Sinh ra trong đời bấp bênh gian truân vô vọng

 

mmm mmm ...

 

Em sinh ra em học tập siêng năng

 

Nhưng hai tay trắng buông xuôi phận hèn

 

Làm sao em biết tương lai nào hơn

 

Đôi tay thừa dư, đôi tay bần cùng

 

Làm sao em biết (người ơi) đôi tay tuổi hờn.

 

Em sinh ra em nhập cuộc vui chơi

 

Mong quên đi nỗi trái ngang trong đời

 

Cuồng quay trong giấc vui say tàn hơi

 

Con tim thờ ơ, con tim hững hờ

 

Cuồng quay trong giấc (người ơi) con tim lạc loài

 

Em sinh ra em là một bông hoa

 

Đôi môi tươi thắm cho ai dày vò

 

Mình thân em đứng giữa chợ đường xa

 

Đôi môi hằn khô, đôi môi vật vờ

 

Chiều lộng trong gió (người ơi) đôi môi bụi mờ

 

Em sinh ra nơi cửa khẩu Lạng Sơn

 

Hai vai lam lũ vác muôn dặm trường

 

Màn đêm muỗi vắt trên ngọn mù sương

 

Đôi vai lạnh căm, đôi vai nhục nhằn

 

Màn đêm muỗi vắt (người ơi) đôi vai nhục nhằn... "

 

 (Sinh Ra làm người Việt Nam):

 

http://vietnamlibrary.informe.com/sinh-ra-lnom-ng-i-vi-t-nam-phan-v-an-h-ng-dt215.html

 

Tôi nghe Phan Văn Hưng nói về anh hùng Trần Văn Bá như sau: "Anh Trần Văn Bá là một người lãnh đạo không giống như ý nghĩa thông thường. Khi nói đến lãnh đạo, người ta hay nghĩ đến một người hùng biện, phất cờ xông pha, chỉ tay, vạch đường lối. Anh Bá không như thế. Sự kiên quyết thì anh có thừa, nhưng luôn luôn được bộc lộ ra ngoài bằng những lời lẽ ôn tồn, thân thiện. Lòng can đảm anh cũng chẳng thiếu, nhưng không bao giờ thấy anh hô hào kêu gọi bất cứ ai đi theo anh. Anh có một viễn kiến chính trị rất sâu sắc, nhưng hiếm khi nào thấy anh tranh luận. Ảnh hưởng của anh trong đám sinh viên tụi tôi nhẹ nhàng nhưng rất sâu. Ngay cả thời tôi làm báo cho anh, anh cũng chỉ đôi ba lần gợi ý về những điều cần nói, còn tất cả để mặc cho tôi lo liệu. Chỉ đến khi anh ra đi thì anh em sinh viên tụi tôi mới thấy thiếu anh...

 

Tôi không biết có phải là sự ngẫu nhiên hay không, nhưng tôi cũng muốn nhạc của mình như thế. Tôi không muốn dùng nhạc để hô hào, mà chỉ muốn lay chuyển nội tâm của người nghe. Lòng kiên quyết có khi cần nằm ẩn đằng sau những nốt nhạc mềm mại. Chuyện hô hào, thúc giục thì có lẽ nên để cho mỗi người tự làm lấy, vì một khi cái tâm phụng sự được nuôi lớn thì người đó sẽ tự mình tìm thấy cách thực hiện hay nhất trong hoàn cảnh riêng của mình."

 

Đến năm 1982, đôi bạn đời Phan Văn Hưng và Nam Dao sang định cư tại Úc châu và vẫn tiếp tục sáng tác, thực hiện những bài hát đạt được sự mến mộ nồng nhiệt từ quần chúng. Đan cử ví dụ như: "Việt Nam Vinh Quang", "Ai Về Xứ Việt", "Bài Ca Tuổi Trẻ", "Sinh Ra Là Người Việt Nam", "Đứa Bé Việt Nam và Viên Sỏi", "Bạn Bè Của Tôi", "Hai Mươi Năm", "Trái Tim Tôi Là Bến", "Nếu Em Nghe Bài Hát Này",  "Có Phải Em Là Em Bé", "Bài Ca Cho Em Bé Thảo", "Giọt Nước Mắt Của Mẹ", "Bài Ca Cho Bé Hải", "Thằng Bé Tát Dầu”,...

 

Tôi còn nhớ năm 1995, ký giả Kiều Mỹ Duyên giới thiệu tôi dĩa CD "Hai Mươi Năm" của anh Phan Văn Hưng, CD có bài hát "Thằng Bé Tát Dầu”, chị Duyên kể rằng lần đầu nghe bài hát chị xúc động đến rơi lệ. Câu chuyện nói lên nỗi oan khiên hai đứa bé ăn cắp dầu ở Xưởng tàu Ba Son.

 

Năm 1980 Phan Văn Hưng phổ thành bài hát "Thằng Bé Tát Dầu" từ thơ Nam Dao, ý nói lên hoàn cảnh cơ cực, bần cùng của người dân nghèo. Trong một ngục tù vĩ đại được Cộng Sản tạo ra, trẻ em phải đi ăn cắp dầu từ xưởng Ba Son mưu sinh cho gia đình, để rồi hai bé trai thơ ngây phải đền mạng do việc ăn cắp dầu. Đứa bé anh ở tuổi mười ba, đã bị gục ngã dưới làn đạn AK của Công Sản. Đứa bé em khóc ngất khi ôm xác anh mình đã chết:

 

"Tôi muốn hát cho thằng bé tát dầu

 

Chết nơi cầu cạnh xưởng Ba Son

 

Tuổi mười ba da trần xạm nắng

 

Vớt cặn dầu về đổi lấy miếng cơm

 

Hai đứa bé bơi xuồng đến gầm cầu

 

Đứa quơ dầm miệng giục em ơi

 

Phải làm nhanh coi chừng họ thấy

 

Tát lẹ vào dầu đổ ướt chiếc khoang

 

Ôi quá nhiều dầu sao quá nhiều

 

Chắc phen này hẳn được cơm no!

 

Ngày chợ đến sẽ mua sữa một lần

 

Cho thằng Cu nếm thử nghe em

 

Mơ chưa dứt, trên cầu chúng thấy rồi

 

Mắt lạnh lùng nạp khẩu AK!...

 

Tràng đạn bắn chết em quá vội vàng

 

Buông dầm rơi ngỡ ngàng trên khoang...

 

Máu em trào nhuộm cả hai vai

 

Thằng nhỏ ôm anh mình bật khóc

 

Lớp cặn dầu này đổi lấy xác anh !

 

Bé tát dầu, thằng bé tát dầu!

 

Chết nơi cầu cạnh xưởng Ba Son..."

 

Đứa Bé Vượt Biên

 

Hình như Phan Văn Hưng quan tâm đến tuổi thơ, trong số khá nhiều bài ca của anh đề cập về tuổi trẻ, hoặc tuổi thơ. Chẳng hạn như "Có Phải Em Là Em Bé", "Bài Ca Cho Em Bé Thảo", "Bài Ca Cho Bé Hải", và bài hát bi thương phổ thơ Trần Trung Đạo, "Đứa Bé Việt Nam và Viên Sỏi", em bé 5, 6 tuổi theo gia đình vượt biên, cả gia đình đều tử nạn trên biển, phép nhiệm màu cứu vớt em sống. Mỗi chiều trong trại tị nạn tạm cư Palawan, em thường ra biển nhặt những viên sỏi trong cô đơn.

 

“Bé thơ ơi cuộc đời em viên sỏi

 

Khóc một lần nước mắt chảy thiên thu

 

- Viên kẹo tròn này để dành cho Mẹ

 

Viên kẹo vuông này để lại cho Ba

 

Viên kẹo nhỏ này để qua cho chị

 

Viên kẹo lớn này để lại cho em

 

Còn viên kẹo thật to này ...là phần Bé đấy

 

Bên bờ biển Palawan

 

Có một em bé gái

 

Tuổi mới chừng lên sáu lên năm

 

Đang ngồi đếm từng viên sỏi nhỏ

 

Và nói chuyện môt. mình

 

Như nói với xa xăm …

 

Chiếc ghe nhỏ vớt vào đây mấy bữa

 

Trên ghe sót lại chỉ dăm người

 

Lạ lùng thay một em bé mồ côi

 

Đã sống sót sau sáu tuần trên biển

 

Họ kể lại em từ đâu không biết

 

Cha mẹ em đã chết đói trên tàu

 

Chị của em hải tặc bắt đi đâu

 

Sóng cuốn mất người em trai một tuổi

 

Kẻ sống sót trong sáu tuần trôi nổi

 

Đã cắt thịt mình lấy máu thắm môi em

 

Ôi những giọt máu Việt Nam

 

Linh diệu vô cùng

 

Nuôi sống em

 

Một người con gái Việt

 

Mai em lớn dù phương nào cách biệt

 

Nhớ đừng bao giờ đổi máu Việt Nam

 

Máu thương yêu đã chảy bốn ngàn năm

 

Và sẽ chảy cho muôn đời còn lại

 

- Viên kẹo tròn này để dành cho Mẹ

 

Viên kẹo vuông này để lại cho Ba

 

Viên kẹo nhỏ này để qua cho chị

 

Viên kẹo lớn này để lại cho em

 

Còn viên kẹo thật to này ... là phần Bé đấy

 

…Bé thơ ơi cuộc đời em viên sỏi

 

Khóc một lần nước mắt chảy thiên thu.”

 

(thơ Trần Trung Đạo, nhạc Phan Văn Hưng)

 

Một bài ca khác liên quan đến thời gian phong trào vượt biên lên cao. Bài hát "Trái Tim Tôi Là Bến", nhạc Phan Văn Hưng, phổ thơ Bắc Phong. Khi nghe Phan Văn Hưng hát tôi có cảm tưởng như anh cất lên lời nguyện cầu từ con tim, từ làn da thớ thịt, bằng máu xương cầu xin cho sự bình an, nhạc anh dìu những cánh buồm rách nát trong cơn giông bão tố đến bến bờ Tình Thương của con người.

 

"Buồm của anh rách nát

 

Bởi bao đợt sóng nhồi

 

Thì xin anh hãy vá

 

Bằng những miếng da tôi

 

Ngòi của anh đã gãy

 

Hãy mài trên xương tôi

 

Chấm máu tôi mà viết

 

Về lương tâm con người

 

Đ.K.:

 

Dù đêm trăng không lên

 

Nhưng mắt trẻ là sao

 

Trái tim tôi là bến

 

Xin anh cứ bơi vào

 

Đàn của anh đã vỡ

 

Hãy dạo trên thân tôi

 

Lấy tiếng tôi mà hát

 

Về đau thương con người"

 

Trái Tim Tôi Là Bến (Phan Văn Hưng - Bắc Phong) : http://www.nhaccuatui.com/nghe"M=-FTtM11i0U

 

Phan Văn Hưng tâm sự về nhạc anh thực hiện kết hợp cùng với người bạn đời Nam Dao. Anh chị không chú trọng vào lời cầu kỳ, hoa mỹ. Ngược lại, anh chị chỉ dùng lời nhạc bình dị, mộc mạc. Tôi nghĩ đó là điểm thành công của họ, vì nhạc như vậy sẽ dễ nhập tâm và đi vào lòng người.

 

Phan Văn Hưng và Nam Dao là những chiến sĩ đấu tranh trên mặt trận văn hóa. Đôi uyên ương này dùng khả năng thiên khiếu của mình vào mục tiêu phụng sự cho quê hương và dân tộc.

 

“Tôi sẽ hát những bài hát đầu tay của Nam Dao và tôi, những bài hát mộc mạc không tham vọng, nhưng cũng là những bài hát đã đánh dấu cuộc đời chúng tôi cũng như của các bạn của tôi. Thời đó chúng tôi đã khóc cho quê hương, cho đồng bào mình, thì ngày hôm nay tiếng khóc đó vẫn chưa dứt. Ngày hôm nay chúng tôi vẫn viết ca khúc, có thể kỹ thuật làm nhạc đã già dặn hơn, đề tài cũng có thể đã thay đổi theo những biến đổi của đất nước, nhưng trong tiếng uất nghẹn chưa nguôi đó, tôi vẫn cảm thấy lòng mình rực lửa vì con đường dân tộc mình đi nhất định sẽ có ngày rực sáng.” (Lời Phan văn Hưng)

 

"Bài Ca Tuổi Trẻ" là tác phẩm nối kết tuổi trẻ Việt Nam khắp nơi hãy ý thức vai trò đấu tranh cho tự do cho quê hương lầm than, thiếu vắng tự do:

 

"Từ khắp những phương trời

 

Và muôn lối đi trong đời

 

Gặp nhau trong tâm hồn Việt Nam sáng ngời

 

Mồ hôi trên cánh đồng

 

Mẹ ru trên núi sông

 

Tình quê hương ta ôm ấm trong lòng

 

Chúng ta là bước người xông pha,

 

Chúng ta là những lớp phù sa

 

Chúng ta là ngọn đuốc bừng to

 

Chúng ta là TỰ DO !!!

 

Bạn hỡi ... ơ....ơi !

 

Hành trang ta đem trong ta,

 

Một khối óc, một tấm lòng, một giấc mơ"

 

Bài Ca Tuổi Trẻ:

 

http://www.nhaccuatui.com/nghe"M=he9THiCcma

 

Anh vẽ lên bức tranh quê hương bằng máu đỏ như sự cương quyết của dân tộc đứng thẳng chống chọi với bạo lực. Anh mang tiếng lòng của loài chim quốc bay đi đó đây hát cho tự do, cho yêu thương và cho tình người qua 121 bài ca.

 

Nhạc anh nhìn qua lăng kính nhân bản là những nét chấm phá tô điểm cho bao câu chuyện thương tâm khiến người nghe dễ xúc động. Tiếng ca ai oán ngân dài thanh âm rung vút cao, dù những lời cầu bình an cho thuyền tị nạn, hay nỗi khao khát tự do nhân quyền hoặc tôn vinh đất nước Việt Nam như bài ca tôi vốn yêu thích:

 

"Việt Nam oai linh nghìn thu sáng danh ngời

 

Đất Tiên Rồng nuôi chí hùng anh

 

Việt Nam dang tay thành tâm khắp nhân loại

 

Cùng thế giới đi xây tình dài

 

Việt Nam thắp cao ngọn đuốc ấm cho đời

 

Bằng trái tim vun trồng thời đại mới

 

Hồn sông núi vang trong mạch sống giống nòi

 

Bước đi trong miệt mài...."

 

Việt Nam Vinh Quang, thơ Nam Dao, nhạc Phan Văn Hưng:

 

http://www.youtube.com/watch"v=cQcYbRaCGYw

 

Việt Hải

 

Lời nhắn

 

Xin thông báo Buổi trình diển âm nhạc Phan Văn Hưng tại Nam Cali.

 

Hội Trường Nhật Báo Viễn Đông, 14891 Moran Street, Westminster, CA 92683.

 

Vào Chủ Nhật, ngày 12 tháng 10, từ 2PM tới 5PM. Vào Cửa Tự Do. Trân trọng kính mời tất cả quý đồng hương.

 

Liên lạc:

 

1/ Thanh Thủy (616) 230-4143,

 

2/ Bích Ngọc (714) 726-6267,

 

3/ Kiều Mỹ Duyên (714) 636-2993.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.