Hôm nay,  

Một Thế Giới Xúc Động

03/01/200700:00:00(Xem: 9258)

Một Thế Giới Xúc Động

Lời giới thiệu: Khi cuốn sách “The Clash of Civilizations” của Samuel Huntington ra đời cách đây hơn 10 năm, nhiều học giả cho rằng nhan đề cuốn sách nhắc nhớ lại sự khác biệt giữa hai nền văn minh đã sinh ra các cuộc thánh chiến kéo dài trong nhiều thế kỷ trong lịch sử, trong lúc thế giới đang đối đầu trước một sự căng thẳng mới giữa hai nền văn minh Thiên chúa giáo và Hồi giáo là một nhan đề thiếu tế nhị.

Nhưng nếu không có sự đụng chạm giữa các nền văn minh, thế giới chúng ta cũng đang đối đối đầu trước một sự đụng chạm khác. Học giả Dominique Moĩsi, một cố vấn thâm niên của Viện Nghiên cứu Bang giao Quốc tế Pháp đặt trụ sở tại Paris (Institut Francais des Relations Internationales – IFRI) cho rằng sự đụng chạm đó là sự xúc động. Và ông trình bày ý của ông trong một tiểu luận nhan đề “The Clash of Emotions” (Sự đụng chạm của xúc động) đăng trong tạp chí Foreign Affairs số tháng Giêng/Hai 2007 và tôi lược dịch các ý chính sau đây.

Học giả Dominique Moĩsi viết tiểu luận này trước khi chính phủ Iraq do những người Shiite cầm đầu treo cổ ông Saddam Hussein (sáng ngày Thứ Bảy 30/12/2006), 4 ngày sau khi một tòa án Iraq xử y án bản án tử hình do một tòa án dưới xử và tuyên án ngày 5/11/2006. Việc ông Saddam Hussein bị treo cổ một cách vội vàng chứng tỏ đó là một hành động do sự xúc động của những thế lực liên hệ.

Không ai chối cãi ông Saddam Hussein đáng tội chết nhưng theo thông lệ của thế giới văn minh án tử hình cần thời gian để duyệt xét trước khi hành hình. Hơn nữa bản  chất vụ án ông Saddam Hussein là một vụ án chính trị sự thi hành bản án cần phải thận trọng hơn có nghĩa là cần thời gian hơn. Giết ông Saddam Hussein ngay không làm cho thế giới ổn định hơn nếu không muốn nói làm cho cuộc nội chiến tại Iraq trở nên khốc liệt và tàn bạo hơn. Thêm nhiều người Iraq vô tội  sẽ chết. Và mối hận thù giữa Hoa Kỳ và Iraq trở nên khó hòa giải hơn. Và nếu ngoại giao sẽ là giải pháp cuối cùng của mọi tranh chấp, sự sống còn trong nhà tù của ông Saddam Hussein biết đâu cũng có thể giúp cho một giải pháp trong tương lai. Trong bối cảnh đó, việc treo cổ ông Saddam Hussein bốn ngày sau khi tòa chung quyết có thể làm thỏa  mãn sự xúc động của một số người nhưng hẳn không phải là một quyết định khôn ngoan, đóng góp cho sự ổn định của thế giới.

** Trần Bình Nam **

SỰ ĐỤNG CHẠM CỦA MỘT THẾ GIỚI ĐẦY XÚC ĐỘNG

Mùa hè năm 1993 ông Samuel Huntington cho xuất bản cuốn sách “clash of civilizations” chủ trương rằng những khác biệt về văn hóa, về quyền lợi quốc gia và triết  lý chính trị là những yếu tố chi phối mọi hoạt động chính trị trên thế giới. Những gì đã diễn ra trong 13 năm qua cho thấy ông Samuel Huntington nói không sai. Có một điều ông Huntington quên không nhắc tới  là thế giới cũng đang bị chi phối bởi “xúc động”. Sự xúc động diễn ra dưới nhiều hình thức: thế giới Tây phương “lo lắng” (cho an ninh đất nước *) thế giới A Rập và Hồi giáo cảm thấy “sĩ nhục” (vì bị Tây phương uy hiếp *) và Á châu thì xúc động bởi niềm “hy vọng” muốn vươn lên.

Tây phương, chính yếu là Hoa Kỳ và Âu châu giải quyết sự  lo lắng cho nền an ninh của đất nước mình một cách khác nhau. Trong khi thế giới Hồi giáo đoàn kết với nhau chung quanh những lực lượng quá khích để chống lại sự  uy hiếp bằng hận thù. Lợi dụng không khí tranh chấp giữa Tây phương và Hồi giáo, Á châu im lặng toan tính cho tương lai.

Tuy nhiên có hai vùng trên thế giới là Nga Sô và Nam Mỹ cả ba sự xúc động đều hiện diện và tác động lẫn nhau và cũng sẽ ảnh hưởng không ít đến tương lai của thế giới.

Hoa Kỳ và Âu châu lo gì"

Lo thế tương đối của nhau, lo cho tương lai, lo mất bản thể quốc gia trong một thế giới càng ngày càng phức tạp.

Âu châu có nhiều mối lo hơn Hoa Kỳ. Âu châu lo ngại bị thế giới nghèo xâm nhập, nhất là từ phía nam với dân số đông đảo. Hình ảnh những người Phi châu bị giết khi leo qua hàng rào giây thép gai bao bọc chung quanh khu riêng biệt của người Tây ban nha tại Morocco làm chúng ta nhớ lại hình ảnh cách đây không lâu khi dân Đông Đức bị bắn chết khi vượt bức tường Bá Linh để tìm tự do. Người Đông Đức bị giết vì chạy trốn sự áp bức, trong khi người Phi châu bị giết vì chạy trốn sự nghèo khó.

Dân Âu Châu lo ngại bị thành phần Hồi giáo quá khích phá hoại, và lo ngại đạo  Hồi giáo đông đảo sẽ tràn ngập Âu châu và biến lục địa này thành lục địa “Eurabia”. Sau cuộc khủng bố năm 2004 tại Madrid, cũng như năm 2005 tại Luân Đôn và những vụ khủng bố bị phát giác mùa hè năm 2006 vừa qua, người Âu châu chợt thấy mình đứng trước một thực tế là Âu châu chẳng những là đất bị khủng bố mà còn là căn cứ địa của những tổ chức khủng bố.

Sau cùng là mối lo ngại bị tụt hậu về kinh tế. Đối với dân Âu châu, toàn cầu hóa là nguyên nhân tạo ra bất ổn và mất công ăn việc làm. Dân Âu châu bị ám ảnh bởi nổi lo rằng Âu châu sẽ biến thành một tàng cổ viện – như thành phố Venice - , một nơi dành cho du khách và người nghỉ hưu chứ không còn là một trung tâm của uy quyền và tư tưởng của những thế kỷ trước.

Sau cùng, người dân Âu châu lo sợ những cường quốc bên ngoài lục địa như nước bạn Hoa Kỳ, hoặc một tổ chức không hình không bóng nhưng nhiều quyền lực như Hội đồng Âu châu (European Commission) uy hiếp.

Cái làm cho những mối lo riêng lẻ nói trên trở thành một mối lo to lớn là sự mất quyền kiểm soát đất đai, mất an ninh và đánh mất bản thể Âu châu, nói cách khác là lo không điều khiển nổi vận mệnh của mình. Đó là lý do tại sao năm 2005 người Pháp và người Hòa Lan đã bỏ phiếu chống Hiến pháp Âu châu. Và cũng là lý do tại sao nhiều quốc gia tại Âu châu đã bày tỏ tinh thần tự hào dân tộc một cách quá hăng say trong dịp tranh tài World Cup vừa qua.

Người Mỹ cũng có một cảm giác chơi vơi như sợ đánh mất sự kiểm soát chính mình như vậy, mặc dù tại Hoa Kỳ sự hội nhập của người Mễ ít có vấn đề như sự hội nhập của người Hồi giáo tại Âu châu. Nếu tại Hoa Kỳ nguời ta đã tranh cãi nhau có nên có một bài quốc ca Mỹ bằng tiếng Tây Ban nha (tức tiếng người Mễ dùng) thì nó cũng như sự cãi vã tại Âu châu về việc choàng khăn che đầu và che mặt của người theo đạo Hồi giáo.

Mức tăng trưởng kinh tế của Hoa Kỳ cao hơn mức tăng trưởng các nước Âu châu nên Hoa Kỳ không lo ngại tình trạng kinh tế xuống dốc như người Âu châu, ngoại trừ  sự lo lắng công ăn việc làm của người Mỹ chạy ra nước ngoài - một hiện tượng gọi là outsourcing). Tuy nhiên người Mỹ lo về những hiện tượng suy thoái khác như chứng béo phì, ngân sách thâm thủng, và gần như không xác định nổi mục tiêu lâu dài của quốc gia.

Sự quá lo lắng về an ninh của Hoa Kỳ sau vụ khủng bố ngày 11 tháng 9 (năm 2001) là chính đáng và hợp lý. Nhưng những hành động do sự quá lo lắng đó mà ra đã làm cho hình ảnh và ảnh hưởng của Hoa Kỳ trên thế giới bị mất mát như thế nào" Vụ vi phạm nhân quyền do sự giam người tại Guantanamo và những khó khăn du khách gặp phải khi nhập cảnh Hoa Kỳ đã làm cho Hoa Kỳ mất cái giá trị cố hữu của nó là một quốc gia luôn mở rộng đôi cánh tay và có một giá trị luân lý đặc thù cao hơn các quốc gia khác.

Trong khi người Âu châu tìm cách tự bảo vệ bằng sự tránh né khó khăn và tương nhượng, người Mỹ tìm cách giải quyết tận gốc ở nước ngoài. Nhưng thực tế là ông Bush càng biện minh chính sách của ông để đáp ứng vụ khủng bố ngày 11 tháng 9 bằng những lời lẽ lạc quan bao nhiêu thì Hoa Kỳ càng ít được lòng người trên thế giới hơn. Vụ đánh Iraq chẳng hạn đã tạo thêm nhiều vấn đề hơn là nó giải quyết. Iraq rơi vào nội chiến và quyền hành trong thế giới Hồi giáo lọt vào tay những thành phần qua khích thuộc khuynh hướng Shiite.

Còn sự xúc động của nguời Hồi giáo như thế nào"

Người Hồi giáo cảm thấy họ xuống dốc từ nhiều thế kỷ qua, trong khi người dân Âu châu cảm thấy sự xuống dốc sau khi chấm dứt cuộc Thế chiến I: Năm 1919 nhà thơ Pháp Paul Valéry viết: “Chúng ta biết nền văn minh của  chúng ta không phải là bất tử”. Khi Âu châu còn nằm trong thời Trung cổ (được ghi nhận từ 476 đến 1450 sau Thiên chuá giáng sinh *) thì nền văn minh của Hồi giáo đang hồi cực thịnh. Và khi Âu châu bước vào thời đại phát huy văn học và nghệ thuật (thế kỷ 14, 15 và 16 *) thì thế giới Hồi giáo bắt đầu đi xuống. Đế quốc Ottoman (tượng trưng cho văn minh Hồi giáo), bị hạm đội Thiên chúa giáo đánh bại tại Lepanto năm 1571, sau đó thất bại không chiếm được thành Vienna năm 1683 và cuối cùng biến mất trên diễn đàn thế giới sau cuộc Thế chiến thứ I.

Đối với người Hồi giáo sự hình thành nước Do thái ngay trên vùng đất của họ là chứng minh hùng hồn nhất sự thất bại của Hồi giáo. Đối với người Do Thái trái lại sự hình thành nước Israel là một điều hợp lý bởi nhiều lý do: trước hết là lời nguyền của tôn giáo, sự hứa hẹn lập quốc và là sự đền bù của thế giới đối với thảm họa Holocaust. Đối với người A Rập họ cho rằng sự lập quốc Do Thái là một hình thức thực dân của Tây phương vào thời đại chế độ thực dân đang tan rã. Người A Rập tin rằng tội diệt chủng của Tây phương đối với người Do Thái lại bắt họ phải trả.

Và cuộc tranh chấp dai dẵng không có lối thoát giữa Do Thái và các nước A Rập tại Trung đông đã biến cái cảm giác bị uy hiếp thành hận thù. Và qua thời gian, sự hận thù xuất phát do tranh chấp đất đai biến thành sự hận thù giữa hai tôn giáo: đạo Hồi và đạo  Do thái, nếu không muốn nói là hận thù giữa Hồi giáo và thế giới Tây phương.

Cuộc nội chiến tại Iraq và trận chiến cuối năm 2006 mới đây giữa Do Thái và nhóm  Herbollah tại Liban (được Iran và các nước đồng minh của Iraq yểm trợ và khai thác) làm cho khối người Hồi giáo thêm bất mãn. Trong một cuộc chiến mà nguyên nhân không gì khác hơn là cho rằng mình bị làm nhục và bị uy hiếp, những người Shiite quá khích trở nên người cầm cờ dẫn đấu chống lại sự uy hiếp và càng bị đánh, quyết tâm chiến đấu của họ càng mạnh thêm.

Sự toàn cầu hóa làm cho vấn đề trở nên trầm trọng hơn. Dân chúng vùng Trung đông chứng kiến sự phồn thịnh của Tây phương và Đông Á do việc toàn cầu hóa trong khi họ bị bỏ lại đàng sau.

Cái cảm giác bị uy hiếp không những chỉ có tại Trung đông mà còn hiện diện trong các cộng đồng người Hồi giáo tại các nước Tây phương. Vụ thanh thiếu niên gốc Hồi giáo đốt xe, phá rối trị an tại Pháp mùa thu năm 2005 có nguồn gốc kinh tế và xã hội, biểu lộ sự bất mãn của một lớp người thiể`u số trong một nước nói là đối đãi bình đẳng với mọi sắc dân nhưng thực tế ngược lại.

Sự khác biệt giữa Tây phương và thế giới Hồi giáo còn do cái nhìn khác nhau về  thế giới do lịch sử để lại. Trong khi các nước Âu châu càng lúc càng xa rời tôn giáo, người Hồi giáo càng lúc càng sùng đạo như một cứu cánh của cuộc đời, không khác gì người Âu châu đã vì tôn giáo mà gây ra bao cuộc chiến tranh trong thế kỷ 16 và thế kỷ 17. Tại Hoa Kỳ cũng có hiện tượng đó nhưng nhẹ nhàng hơn, vì chính yếu Hoa Kỳ vẫn còn là một quốc gia sùng đạo và hiện tượng trở về với đạo lại được khơi dậy mới đây (tác giả ám chỉ cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 2004 *). Tóm lại nhóm quá khích trong Hồi giáo hành động do sự thúc đẩy bởi hai mối hận: thứ nhất là nhóm thiểu số Shiite chống lại nhóm đa số Sunni và giữa Hồi giáo và Tây phương.

Trong khi thế giới Tây phương và Trung đông đánh nhau thì Á châu cảm nhận một niềm hy vọng mới. Cuộc triển lãm mang tên “Ba vị hoàng đế Trung quốc từ 1662 đến 1795” năm 2005 và 2006 tại Hàn Lâm Viên nghệ thuật hoàng gia Anh tại Luân Đôn đã phản ánh suy nghĩ mới của người Trung hoa. Thông điệp của Bắc Kinh qua cuộc triển lãm là: “Trung quốc đang trở lại chính trường quốc tế”. Đến xem triển lãm ai cũng phải chú ý đến một bức tranh đồ sộ vẽ từ thế kỷ thứ 18 ghi lại hình ảnh các sứ giả Tây phương đang đến chào mừng hoàng đế nước Tàu. Sau hai thế kỷ suy thoái, Trung quốc đang dần khôi phục uy thế quốc tế của mình. Chính sách của Trung quốc đặt trọng tâm vào phát triển kinh tế và tránh đụng chạm với các thế lực lớn trên thế giới  là một chính sách khôn ngoan làm cho Trung quốc vừa có lợi vật chất vừa tạo thêm uy ín.

Trong khi đó Ấn Độ độc lập và cũng trở thành một sức mạnh đáng nể trên thế giới. Ấn Độ hợp tác ngoại giao với Hoa Kỳ, buôn bán với Âu châu, và giới chất xám của  Ấn Độ chứng tỏ tự tin và lạc quan hơn giới chất xám của Trung quốc. Ấn Độ là một quốc gia dân chủ lớn nhất thế giới và dân số sắp vượt qua Trung quốc sẽ là một quốc gia có tiềm năng vô giới hạn.

Lẽ dĩ nhiên có nhiều bất trắc trước mắt đối với Á châu như học giả Cassandras tiên đoán rằng những khó khăn về chiến lược, kinh tế, xã hội có thể làm cho niềm hy vọng vươn lên của Á châu không trở thành sự thật. Các nước Á châu chưa thực hiện được sự hòa giải giữa các quốc gia do lịch sử để lại như Âu châu. Trung quốc và Nam Hàn vẫn còn tố cáo những hành vi thái quá của quân đội Nhật Bản trong chiến tranh (giống như tình trạng hiềm khích giữa các nước tại Âu châu vào thập niên 1950).  Bắc Hàn đang là một quốc gia bất trị nguy hiểm. Và một cuộc chạy đua vũ trang nguyên tử là mối đe dọa thường trực cho an ninh của Á châu.

Tại Trung quốc sự mâu thuẫn giữa sự phát triển kinh tế và thể chế chính trị độc đảng (và không có dấu hiệu nào những người lãnh đạo Trung quốc muốn thay đổi) sẽ làm cản đường cho một sự phát triển hài hòa của Trung quốc. Tuy vậy, cho đến giờ phút này các nhà lãnh đạo Trung quốc và quần chúng hình như vẫn lạc quan cho rằng không có vấn đề gì trầm trọng trước mắt chừng nào kinh tế vẫn phát triển.

Vậy phải làm gì trước một thế giới đầy xúc động" Trước hết Tây phương cần nhìn nhận rằng cái cảm nhận bị khinh khi của thế giới Hồi giáo là một mối đe dọa cho Hoa Kỳ và Âu Châu. Bỏ qua hay coi thường cái cảm nhận “bị khinh dể” của Hồi giáo là một sai lầm nghiêm trọng. Tuy nhiên đáp ứng bằng nhượng bộ hay bằng sức mạnh đều không giải quyết được vấn đề. Chiến tranh đang diễn ra tại Iraq cho người Hồi giáo thấy rằng dù họ hy sinh bao nhiêu để rửa nhục họ cũng chưa mang lại đuợc thắng lợi nào, nhưng nó cũng chứng tỏ rằng thế giới Tây phương có thể thất bại vì chúng ta phải tôn trọng luật pháp quốc tế và quyền tự do cá nhân. Tây phương cũng không thể thành công bằng cách thuyết phục những người Hồi giáo ôn hòa chống lại những người Hồi giáo quá khích. Cách tốt nhất có lẽ là tạo điều kiện làm cho xã hội Hồi giáo cảm thấy hy vọng và tiến bộ để cho khối người Hồi giáo trầm lặng không rơi vào đôi tay đang chờ đón của những thành phần quá khích.

Nhìn dưới góc độ đó, cuộc tranh chấp Do Thái – Palestine có thể là cái mẫu thu nhỏ của cuộc xung đột Tây Phương và Hồi giáo trong tương lai. Do Thái hiện nay (và Tây Phương trong tương lai) bị bao vây bởi sự hận thù (vì người Hồi giáo cho rằng họ bị làm nhục) đang tìm đường thoát ra khỏi vòng vây để tạo một niềm hy vọng vĩnh cửu cho đất nước. Nhưng trước hết phải tìm một giải pháp cho Palestine, nếu không Do Thái không có hy vọng gì thoát khỏi vòng vây của hận thù.

Cũng vậy, Hoa Kỳ và Âu châu đều muốn thoát ra khỏi sự bao vây của hận thù. Nhưng Hoa Kỳ và Âu Châu chỉ có thể thành công khi tìm được một công thức giúp người Hồi giáo giải quyết những khó khăn của họ.

Dominique Moĩsi

Jan. 2, 2007

(*) ghi chú của người lược dịch

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Năm 1895, Alfred Nobel – nhà khoa học bị ám ảnh bởi cái giá mà nhân loại phải trả từ phát minh của mình – đã để lại di chúc năm 1895 rằng tài sản của ông sẽ dùng để tài trợ các giải thưởng “mang lại lợi ích lớn nhất cho nhân loại.” Đối với Nobel Hòa Bình, ông có phần đặc biệt: giải thưởng này sẽ được trao cho người đã “có nhiều hành động hoặc nỗ lực mang đến sự đoàn kết, hòa bình giữa các quốc gia, bãi bỏ hoặc giảm bớt quân đội thường trực, tổ chức và thúc đẩy các hội nghị hòa bình.” Sứ mệnh chọn lựa được giao cho Quốc Hội Na Uy, có lẽ vì ông tin rằng Na Uy – khi đó còn nhỏ bé và trung lập – sẽ ít bị cám dỗ bởi chính trị quyền lực.
Trung Hoa ngày nay như kinh thành giữa sa mạc, vẻ yên ổn bên ngoài chỉ là lớp sơn son thếp vàng phủ lên nền đá đã rạn. Thế giới đứng ngoài quan sát, vừa lo nó sụp, vừa biết nó trụ lại nhờ ảo ảnh quyền lực và niềm tin vay mượn. Dưới lớp hào nhoáng của “Giấc mộng Trung Hoa” là một cơ đồ quyền lực đang già nua trong chính tuổi trẻ của mình. Bởi sức mạnh của nó không khởi từ niềm tin, mà từ nỗi sợ — và nỗi sợ, tự thuở khai triều lập quốc, chưa bao giờ là nền tảng lâu bền.
Ngày 8 tháng 10 năm 2025, tại tòa án liên bang ở Alexandria, bang Virginia, cựu Giám đốc Cơ quan Điều tra Liên bang (FBI) James Comey không nhận tội đối với hai cáo buộc hình sự. Cáo trạng nêu rằng vào tháng 9 năm 2020, Comey đã nói dối Quốc Hội khi vẫn giữ nguyên lời khai trong buổi điều trần trước đó rằng ông không hề cho phép để lộ thông tin về cuộc điều tra của FBI liên quan đến Hillary Clinton. Theo nhiều bình luận gia pháp lý, từ cánh tả đến cánh hữu, việc truy tố Comey chủ yếu chỉ là do chính phủ liên bang đang cố tình nhắm vào kẻ mà Tổng thống “thấy không vừa mắt.” Comey là người đứng đầu cuộc điều tra nghi án Nga can thiệp bầu cử tổng thống 2016 và bị Trump lột chức vào năm 2017.
Sau sáu ngày đột ngột “bặt tiếng,” chương trình Jimmy Kimmel Live, của MC kiêm diễn viên hài và nhà biên kịch nổi tiếng, đã trở lại với khán thính giả vào tối 23/9/2025. Sự trở lại này, chỉ vỏn vẹn sau gần một tuần bị đình chỉ, không chỉ là tin vui với những người yêu tiếng cười đêm khuya của truyền hình Mỹ, mà còn là một hồi chuông cảnh tỉnh, kéo theo những bàn luận trái chiều, chạm đến cốt lõi của tự do ngôn luận, một trong những quyền thiêng liêng nhất trong thể chế dân chủ.
Texas, mùa thu 2025 – trên khuôn viên đại học giữa vùng đất vốn tự hào là “trái tim bảo thủ của nước Mỹ”, thay vì nghe tiếng lá thu rơi, người ta lại nghe tiếng giày đinh vang vọng, bước chân của bóng ma McCarthyism quay về - phiên bản thế kỷ 21 - trở lại giảng đường với tốc độ và sự kinh dị của thời đại kỹ thuật số. Ngày 9 tháng 9, trên bục giảng của trường Texas A&M University, giáo sư Melissa McCoul trong giờ văn học thiếu nhi, dùng hình một con kỳ lân tím để nói với sinh viên rằng bản sắc con người không chỉ có hai nửa nam–nữ. Một sinh viên giơ tay hỏi: “Điều này có hợp pháp không?” và viện dẫn sắc lệnh mà Tổng thống Donald Trump ký hồi tháng Giêng, tuyên bố chỉ có hai giới tính sinh học. Bà McCoul đáp bằng lý lẽ, không viện dẫn chính trị. Nhưng một chiếc điện thoại trong lớp đã ngầm quay lại hình ảnh. Và chỉ ít lâu sau, cả nước đều xem đoạn clip ấy – không phải để học, mà để phán xét.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi thể chế, phương Tây và Việt Nam đang phải đối diện trước những thách thức nghiêm trọng về cải cách chính sách để cho phù hợp với nhu cầu của thời đại mới, nhất là vai trò của pháp luật. Pháp luật là nền tảng thiết yếu cho sự vận hành ổn định và công bằng của xã hội. Là hệ thống quy phạm điều chỉnh hành vi con người, pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân và tập thể mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững. Trong xã hội hiện đại, vai trò của pháp luật được thể hiện rõ nét qua các lĩnh vực như bảo vệ an ninh quốc phòng, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm quyền tự do cá nhân, phát triển phúc lợi xã hội, và thúc đẩy tinh thần hợp tác cũng như hội nhập.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Quantico, Virginia, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth bước lên sân khấu trước hàng trăm tướng và đô đốc được triệu tập từ khắp nơi trên thế giới. Ông tuyên bố sẽ “cải tổ văn hóa quân đội” bằng mười chỉ thị mới, nhằm quét sạch cái mà ông gọi là “rác rưởi thức tỉnh” và khôi phục “tinh thần chiến binh”. Cụm từ ấy – nửa ca tụng bạo lực, nửa tán dương cơ bắp – nay đã trở thành thương hiệu chính trị của Hegseth. Trong cuốn Cuộc Chiến Chống Lại Những Chiến Binh (2024), ông cho rằng việc phụ nữ được đưa vào các vai trò chiến đấu đã “làm cạn kiệt” tinh thần này, khiến quân đội Hoa Kỳ “ít sát thương hơn.” Nghe qua, người ta tưởng quân đội chỉ tồn tại để đong máu đếm xác.
Ông bà xưa đã nói, nắm thì “nắm kẻ có tóc ai nắm kẻ trọc đầu.” Cách nói dân gian này rất cụ thể và dễ hình dung, người có tóc thì dễ bị nắm, bị túm, còn người trọc đầu thì không thể nắm được. Mang câu nói này vào chính trường Mỹ hiện tại, quả là khôi hài, nhưng không kém màu bi kịch. Nó phản ánh một sự thật trần trụi và không thể tránh khỏi: Quyền lực, chính sách, sắc lệnh hành pháp, các cuộc chiến pháp lý và ‘tuổi thọ’ chính trị của người đứng đầu nhánh hành pháp đang phụ thuộc vào sự phục tùng của các nhà lãnh đạo và những tài phiệt. Họ là ai? Họ là một mạng lưới của các quan chức, nhà lập pháp, giám đốc điều hành truyền thông, nhà tài trợ…, những người đã chọn chọ họ một thế đứng, xuôi theo những gì tổng thống muốn.
Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đang đánh một đòn nguy hiểm: huy động các văn phòng công tố đi điều tra mạng lưới từ thiện Open Society Foundations của gia đình Soros, một quỹ từ thiện quốc tế, nổi tiếng với việc tài trợ cho các dự án dân chủ, giáo dục và nhân quyền trên khắp thế giới. Danh sách cáo buộc nghe cứ như “vật lạ”: từ đốt phá đến tài trợ khủng bố. Open Society Foundations lập tức phản đối, khẳng định mình hoạt động hợp pháp, và nhắc lại điều mà bất cứ người tỉnh táo nào cũng hiểu: khi chính quyền có thể tùy tiện lấy một nhóm dân sự làm vật tế, thì quyền của mọi nhóm khác cũng chẳng còn gì bảo đảm.
Trong nhiều thập niên qua, giải pháp hai nhà nước luôn được xem là phương án khả thi nhằm mang lại hòa bình cho khu vực Trung Đông. Tuy nhiên, tiến trình này vẫn chưa đạt được kết quả cụ thể. Gần đây, cuộc tranh luận về việc công nhận nhà nước Palestine đang có những chuyển biến mới khi Pháp và Ả Rập Xê Út tổ chức một hội nghị quốc tế tại New York, ngay trước thềm Đại hội thường niên của Liên Hiệp Quốc.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.