Hôm nay,  

Một Thế Giới Xúc Động

03/01/200700:00:00(Xem: 9266)

Một Thế Giới Xúc Động

Lời giới thiệu: Khi cuốn sách “The Clash of Civilizations” của Samuel Huntington ra đời cách đây hơn 10 năm, nhiều học giả cho rằng nhan đề cuốn sách nhắc nhớ lại sự khác biệt giữa hai nền văn minh đã sinh ra các cuộc thánh chiến kéo dài trong nhiều thế kỷ trong lịch sử, trong lúc thế giới đang đối đầu trước một sự căng thẳng mới giữa hai nền văn minh Thiên chúa giáo và Hồi giáo là một nhan đề thiếu tế nhị.

Nhưng nếu không có sự đụng chạm giữa các nền văn minh, thế giới chúng ta cũng đang đối đối đầu trước một sự đụng chạm khác. Học giả Dominique Moĩsi, một cố vấn thâm niên của Viện Nghiên cứu Bang giao Quốc tế Pháp đặt trụ sở tại Paris (Institut Francais des Relations Internationales – IFRI) cho rằng sự đụng chạm đó là sự xúc động. Và ông trình bày ý của ông trong một tiểu luận nhan đề “The Clash of Emotions” (Sự đụng chạm của xúc động) đăng trong tạp chí Foreign Affairs số tháng Giêng/Hai 2007 và tôi lược dịch các ý chính sau đây.

Học giả Dominique Moĩsi viết tiểu luận này trước khi chính phủ Iraq do những người Shiite cầm đầu treo cổ ông Saddam Hussein (sáng ngày Thứ Bảy 30/12/2006), 4 ngày sau khi một tòa án Iraq xử y án bản án tử hình do một tòa án dưới xử và tuyên án ngày 5/11/2006. Việc ông Saddam Hussein bị treo cổ một cách vội vàng chứng tỏ đó là một hành động do sự xúc động của những thế lực liên hệ.

Không ai chối cãi ông Saddam Hussein đáng tội chết nhưng theo thông lệ của thế giới văn minh án tử hình cần thời gian để duyệt xét trước khi hành hình. Hơn nữa bản  chất vụ án ông Saddam Hussein là một vụ án chính trị sự thi hành bản án cần phải thận trọng hơn có nghĩa là cần thời gian hơn. Giết ông Saddam Hussein ngay không làm cho thế giới ổn định hơn nếu không muốn nói làm cho cuộc nội chiến tại Iraq trở nên khốc liệt và tàn bạo hơn. Thêm nhiều người Iraq vô tội  sẽ chết. Và mối hận thù giữa Hoa Kỳ và Iraq trở nên khó hòa giải hơn. Và nếu ngoại giao sẽ là giải pháp cuối cùng của mọi tranh chấp, sự sống còn trong nhà tù của ông Saddam Hussein biết đâu cũng có thể giúp cho một giải pháp trong tương lai. Trong bối cảnh đó, việc treo cổ ông Saddam Hussein bốn ngày sau khi tòa chung quyết có thể làm thỏa  mãn sự xúc động của một số người nhưng hẳn không phải là một quyết định khôn ngoan, đóng góp cho sự ổn định của thế giới.

** Trần Bình Nam **

SỰ ĐỤNG CHẠM CỦA MỘT THẾ GIỚI ĐẦY XÚC ĐỘNG

Mùa hè năm 1993 ông Samuel Huntington cho xuất bản cuốn sách “clash of civilizations” chủ trương rằng những khác biệt về văn hóa, về quyền lợi quốc gia và triết  lý chính trị là những yếu tố chi phối mọi hoạt động chính trị trên thế giới. Những gì đã diễn ra trong 13 năm qua cho thấy ông Samuel Huntington nói không sai. Có một điều ông Huntington quên không nhắc tới  là thế giới cũng đang bị chi phối bởi “xúc động”. Sự xúc động diễn ra dưới nhiều hình thức: thế giới Tây phương “lo lắng” (cho an ninh đất nước *) thế giới A Rập và Hồi giáo cảm thấy “sĩ nhục” (vì bị Tây phương uy hiếp *) và Á châu thì xúc động bởi niềm “hy vọng” muốn vươn lên.

Tây phương, chính yếu là Hoa Kỳ và Âu châu giải quyết sự  lo lắng cho nền an ninh của đất nước mình một cách khác nhau. Trong khi thế giới Hồi giáo đoàn kết với nhau chung quanh những lực lượng quá khích để chống lại sự  uy hiếp bằng hận thù. Lợi dụng không khí tranh chấp giữa Tây phương và Hồi giáo, Á châu im lặng toan tính cho tương lai.

Tuy nhiên có hai vùng trên thế giới là Nga Sô và Nam Mỹ cả ba sự xúc động đều hiện diện và tác động lẫn nhau và cũng sẽ ảnh hưởng không ít đến tương lai của thế giới.

Hoa Kỳ và Âu châu lo gì"

Lo thế tương đối của nhau, lo cho tương lai, lo mất bản thể quốc gia trong một thế giới càng ngày càng phức tạp.

Âu châu có nhiều mối lo hơn Hoa Kỳ. Âu châu lo ngại bị thế giới nghèo xâm nhập, nhất là từ phía nam với dân số đông đảo. Hình ảnh những người Phi châu bị giết khi leo qua hàng rào giây thép gai bao bọc chung quanh khu riêng biệt của người Tây ban nha tại Morocco làm chúng ta nhớ lại hình ảnh cách đây không lâu khi dân Đông Đức bị bắn chết khi vượt bức tường Bá Linh để tìm tự do. Người Đông Đức bị giết vì chạy trốn sự áp bức, trong khi người Phi châu bị giết vì chạy trốn sự nghèo khó.

Dân Âu Châu lo ngại bị thành phần Hồi giáo quá khích phá hoại, và lo ngại đạo  Hồi giáo đông đảo sẽ tràn ngập Âu châu và biến lục địa này thành lục địa “Eurabia”. Sau cuộc khủng bố năm 2004 tại Madrid, cũng như năm 2005 tại Luân Đôn và những vụ khủng bố bị phát giác mùa hè năm 2006 vừa qua, người Âu châu chợt thấy mình đứng trước một thực tế là Âu châu chẳng những là đất bị khủng bố mà còn là căn cứ địa của những tổ chức khủng bố.

Sau cùng là mối lo ngại bị tụt hậu về kinh tế. Đối với dân Âu châu, toàn cầu hóa là nguyên nhân tạo ra bất ổn và mất công ăn việc làm. Dân Âu châu bị ám ảnh bởi nổi lo rằng Âu châu sẽ biến thành một tàng cổ viện – như thành phố Venice - , một nơi dành cho du khách và người nghỉ hưu chứ không còn là một trung tâm của uy quyền và tư tưởng của những thế kỷ trước.

Sau cùng, người dân Âu châu lo sợ những cường quốc bên ngoài lục địa như nước bạn Hoa Kỳ, hoặc một tổ chức không hình không bóng nhưng nhiều quyền lực như Hội đồng Âu châu (European Commission) uy hiếp.

Cái làm cho những mối lo riêng lẻ nói trên trở thành một mối lo to lớn là sự mất quyền kiểm soát đất đai, mất an ninh và đánh mất bản thể Âu châu, nói cách khác là lo không điều khiển nổi vận mệnh của mình. Đó là lý do tại sao năm 2005 người Pháp và người Hòa Lan đã bỏ phiếu chống Hiến pháp Âu châu. Và cũng là lý do tại sao nhiều quốc gia tại Âu châu đã bày tỏ tinh thần tự hào dân tộc một cách quá hăng say trong dịp tranh tài World Cup vừa qua.

Người Mỹ cũng có một cảm giác chơi vơi như sợ đánh mất sự kiểm soát chính mình như vậy, mặc dù tại Hoa Kỳ sự hội nhập của người Mễ ít có vấn đề như sự hội nhập của người Hồi giáo tại Âu châu. Nếu tại Hoa Kỳ nguời ta đã tranh cãi nhau có nên có một bài quốc ca Mỹ bằng tiếng Tây Ban nha (tức tiếng người Mễ dùng) thì nó cũng như sự cãi vã tại Âu châu về việc choàng khăn che đầu và che mặt của người theo đạo Hồi giáo.

Mức tăng trưởng kinh tế của Hoa Kỳ cao hơn mức tăng trưởng các nước Âu châu nên Hoa Kỳ không lo ngại tình trạng kinh tế xuống dốc như người Âu châu, ngoại trừ  sự lo lắng công ăn việc làm của người Mỹ chạy ra nước ngoài - một hiện tượng gọi là outsourcing). Tuy nhiên người Mỹ lo về những hiện tượng suy thoái khác như chứng béo phì, ngân sách thâm thủng, và gần như không xác định nổi mục tiêu lâu dài của quốc gia.

Sự quá lo lắng về an ninh của Hoa Kỳ sau vụ khủng bố ngày 11 tháng 9 (năm 2001) là chính đáng và hợp lý. Nhưng những hành động do sự quá lo lắng đó mà ra đã làm cho hình ảnh và ảnh hưởng của Hoa Kỳ trên thế giới bị mất mát như thế nào" Vụ vi phạm nhân quyền do sự giam người tại Guantanamo và những khó khăn du khách gặp phải khi nhập cảnh Hoa Kỳ đã làm cho Hoa Kỳ mất cái giá trị cố hữu của nó là một quốc gia luôn mở rộng đôi cánh tay và có một giá trị luân lý đặc thù cao hơn các quốc gia khác.

Trong khi người Âu châu tìm cách tự bảo vệ bằng sự tránh né khó khăn và tương nhượng, người Mỹ tìm cách giải quyết tận gốc ở nước ngoài. Nhưng thực tế là ông Bush càng biện minh chính sách của ông để đáp ứng vụ khủng bố ngày 11 tháng 9 bằng những lời lẽ lạc quan bao nhiêu thì Hoa Kỳ càng ít được lòng người trên thế giới hơn. Vụ đánh Iraq chẳng hạn đã tạo thêm nhiều vấn đề hơn là nó giải quyết. Iraq rơi vào nội chiến và quyền hành trong thế giới Hồi giáo lọt vào tay những thành phần qua khích thuộc khuynh hướng Shiite.

Còn sự xúc động của nguời Hồi giáo như thế nào"

Người Hồi giáo cảm thấy họ xuống dốc từ nhiều thế kỷ qua, trong khi người dân Âu châu cảm thấy sự xuống dốc sau khi chấm dứt cuộc Thế chiến I: Năm 1919 nhà thơ Pháp Paul Valéry viết: “Chúng ta biết nền văn minh của  chúng ta không phải là bất tử”. Khi Âu châu còn nằm trong thời Trung cổ (được ghi nhận từ 476 đến 1450 sau Thiên chuá giáng sinh *) thì nền văn minh của Hồi giáo đang hồi cực thịnh. Và khi Âu châu bước vào thời đại phát huy văn học và nghệ thuật (thế kỷ 14, 15 và 16 *) thì thế giới Hồi giáo bắt đầu đi xuống. Đế quốc Ottoman (tượng trưng cho văn minh Hồi giáo), bị hạm đội Thiên chúa giáo đánh bại tại Lepanto năm 1571, sau đó thất bại không chiếm được thành Vienna năm 1683 và cuối cùng biến mất trên diễn đàn thế giới sau cuộc Thế chiến thứ I.

Đối với người Hồi giáo sự hình thành nước Do thái ngay trên vùng đất của họ là chứng minh hùng hồn nhất sự thất bại của Hồi giáo. Đối với người Do Thái trái lại sự hình thành nước Israel là một điều hợp lý bởi nhiều lý do: trước hết là lời nguyền của tôn giáo, sự hứa hẹn lập quốc và là sự đền bù của thế giới đối với thảm họa Holocaust. Đối với người A Rập họ cho rằng sự lập quốc Do Thái là một hình thức thực dân của Tây phương vào thời đại chế độ thực dân đang tan rã. Người A Rập tin rằng tội diệt chủng của Tây phương đối với người Do Thái lại bắt họ phải trả.

Và cuộc tranh chấp dai dẵng không có lối thoát giữa Do Thái và các nước A Rập tại Trung đông đã biến cái cảm giác bị uy hiếp thành hận thù. Và qua thời gian, sự hận thù xuất phát do tranh chấp đất đai biến thành sự hận thù giữa hai tôn giáo: đạo Hồi và đạo  Do thái, nếu không muốn nói là hận thù giữa Hồi giáo và thế giới Tây phương.

Cuộc nội chiến tại Iraq và trận chiến cuối năm 2006 mới đây giữa Do Thái và nhóm  Herbollah tại Liban (được Iran và các nước đồng minh của Iraq yểm trợ và khai thác) làm cho khối người Hồi giáo thêm bất mãn. Trong một cuộc chiến mà nguyên nhân không gì khác hơn là cho rằng mình bị làm nhục và bị uy hiếp, những người Shiite quá khích trở nên người cầm cờ dẫn đấu chống lại sự uy hiếp và càng bị đánh, quyết tâm chiến đấu của họ càng mạnh thêm.

Sự toàn cầu hóa làm cho vấn đề trở nên trầm trọng hơn. Dân chúng vùng Trung đông chứng kiến sự phồn thịnh của Tây phương và Đông Á do việc toàn cầu hóa trong khi họ bị bỏ lại đàng sau.

Cái cảm giác bị uy hiếp không những chỉ có tại Trung đông mà còn hiện diện trong các cộng đồng người Hồi giáo tại các nước Tây phương. Vụ thanh thiếu niên gốc Hồi giáo đốt xe, phá rối trị an tại Pháp mùa thu năm 2005 có nguồn gốc kinh tế và xã hội, biểu lộ sự bất mãn của một lớp người thiể`u số trong một nước nói là đối đãi bình đẳng với mọi sắc dân nhưng thực tế ngược lại.

Sự khác biệt giữa Tây phương và thế giới Hồi giáo còn do cái nhìn khác nhau về  thế giới do lịch sử để lại. Trong khi các nước Âu châu càng lúc càng xa rời tôn giáo, người Hồi giáo càng lúc càng sùng đạo như một cứu cánh của cuộc đời, không khác gì người Âu châu đã vì tôn giáo mà gây ra bao cuộc chiến tranh trong thế kỷ 16 và thế kỷ 17. Tại Hoa Kỳ cũng có hiện tượng đó nhưng nhẹ nhàng hơn, vì chính yếu Hoa Kỳ vẫn còn là một quốc gia sùng đạo và hiện tượng trở về với đạo lại được khơi dậy mới đây (tác giả ám chỉ cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 2004 *). Tóm lại nhóm quá khích trong Hồi giáo hành động do sự thúc đẩy bởi hai mối hận: thứ nhất là nhóm thiểu số Shiite chống lại nhóm đa số Sunni và giữa Hồi giáo và Tây phương.

Trong khi thế giới Tây phương và Trung đông đánh nhau thì Á châu cảm nhận một niềm hy vọng mới. Cuộc triển lãm mang tên “Ba vị hoàng đế Trung quốc từ 1662 đến 1795” năm 2005 và 2006 tại Hàn Lâm Viên nghệ thuật hoàng gia Anh tại Luân Đôn đã phản ánh suy nghĩ mới của người Trung hoa. Thông điệp của Bắc Kinh qua cuộc triển lãm là: “Trung quốc đang trở lại chính trường quốc tế”. Đến xem triển lãm ai cũng phải chú ý đến một bức tranh đồ sộ vẽ từ thế kỷ thứ 18 ghi lại hình ảnh các sứ giả Tây phương đang đến chào mừng hoàng đế nước Tàu. Sau hai thế kỷ suy thoái, Trung quốc đang dần khôi phục uy thế quốc tế của mình. Chính sách của Trung quốc đặt trọng tâm vào phát triển kinh tế và tránh đụng chạm với các thế lực lớn trên thế giới  là một chính sách khôn ngoan làm cho Trung quốc vừa có lợi vật chất vừa tạo thêm uy ín.

Trong khi đó Ấn Độ độc lập và cũng trở thành một sức mạnh đáng nể trên thế giới. Ấn Độ hợp tác ngoại giao với Hoa Kỳ, buôn bán với Âu châu, và giới chất xám của  Ấn Độ chứng tỏ tự tin và lạc quan hơn giới chất xám của Trung quốc. Ấn Độ là một quốc gia dân chủ lớn nhất thế giới và dân số sắp vượt qua Trung quốc sẽ là một quốc gia có tiềm năng vô giới hạn.

Lẽ dĩ nhiên có nhiều bất trắc trước mắt đối với Á châu như học giả Cassandras tiên đoán rằng những khó khăn về chiến lược, kinh tế, xã hội có thể làm cho niềm hy vọng vươn lên của Á châu không trở thành sự thật. Các nước Á châu chưa thực hiện được sự hòa giải giữa các quốc gia do lịch sử để lại như Âu châu. Trung quốc và Nam Hàn vẫn còn tố cáo những hành vi thái quá của quân đội Nhật Bản trong chiến tranh (giống như tình trạng hiềm khích giữa các nước tại Âu châu vào thập niên 1950).  Bắc Hàn đang là một quốc gia bất trị nguy hiểm. Và một cuộc chạy đua vũ trang nguyên tử là mối đe dọa thường trực cho an ninh của Á châu.

Tại Trung quốc sự mâu thuẫn giữa sự phát triển kinh tế và thể chế chính trị độc đảng (và không có dấu hiệu nào những người lãnh đạo Trung quốc muốn thay đổi) sẽ làm cản đường cho một sự phát triển hài hòa của Trung quốc. Tuy vậy, cho đến giờ phút này các nhà lãnh đạo Trung quốc và quần chúng hình như vẫn lạc quan cho rằng không có vấn đề gì trầm trọng trước mắt chừng nào kinh tế vẫn phát triển.

Vậy phải làm gì trước một thế giới đầy xúc động" Trước hết Tây phương cần nhìn nhận rằng cái cảm nhận bị khinh khi của thế giới Hồi giáo là một mối đe dọa cho Hoa Kỳ và Âu Châu. Bỏ qua hay coi thường cái cảm nhận “bị khinh dể” của Hồi giáo là một sai lầm nghiêm trọng. Tuy nhiên đáp ứng bằng nhượng bộ hay bằng sức mạnh đều không giải quyết được vấn đề. Chiến tranh đang diễn ra tại Iraq cho người Hồi giáo thấy rằng dù họ hy sinh bao nhiêu để rửa nhục họ cũng chưa mang lại đuợc thắng lợi nào, nhưng nó cũng chứng tỏ rằng thế giới Tây phương có thể thất bại vì chúng ta phải tôn trọng luật pháp quốc tế và quyền tự do cá nhân. Tây phương cũng không thể thành công bằng cách thuyết phục những người Hồi giáo ôn hòa chống lại những người Hồi giáo quá khích. Cách tốt nhất có lẽ là tạo điều kiện làm cho xã hội Hồi giáo cảm thấy hy vọng và tiến bộ để cho khối người Hồi giáo trầm lặng không rơi vào đôi tay đang chờ đón của những thành phần quá khích.

Nhìn dưới góc độ đó, cuộc tranh chấp Do Thái – Palestine có thể là cái mẫu thu nhỏ của cuộc xung đột Tây Phương và Hồi giáo trong tương lai. Do Thái hiện nay (và Tây Phương trong tương lai) bị bao vây bởi sự hận thù (vì người Hồi giáo cho rằng họ bị làm nhục) đang tìm đường thoát ra khỏi vòng vây để tạo một niềm hy vọng vĩnh cửu cho đất nước. Nhưng trước hết phải tìm một giải pháp cho Palestine, nếu không Do Thái không có hy vọng gì thoát khỏi vòng vây của hận thù.

Cũng vậy, Hoa Kỳ và Âu châu đều muốn thoát ra khỏi sự bao vây của hận thù. Nhưng Hoa Kỳ và Âu Châu chỉ có thể thành công khi tìm được một công thức giúp người Hồi giáo giải quyết những khó khăn của họ.

Dominique Moĩsi

Jan. 2, 2007

(*) ghi chú của người lược dịch

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tháng Năm, 2024, trong phiên tòa xét xử bị cáo, tức cựu Tổng thống Donald Trump, liên quan các khoản chi phí cho nữ diễn viên phim khiêu dâm Stormy Daniels dưới dạng tiền bịt miệng, có một cựu công tố viên, bộ trưởng tư pháp từ Flordia đến tòa New York. Bà ngồi bên dưới theo dõi để ủng hộ Trump. Đó là Pam Bondi. Sau khi bồi thẩm đoàn phán quyết Trump có tội trong 34 tội danh, Bondi đã xuất hiện trên Fox News, cùng với Kash Patel, phát biểu rằng “một niềm tin rất lớn đã bị mất vào hệ thống tư pháp tối nay.” Bà còn nói thêm: “Người dân Mỹ đã nhìn thấu điều đó.”
Chiều thứ Sáu, chúng tôi ăn trưa với một người bạn mới ở Huntington Beach. Không biết vì men bia hay vì chọn quán giữa một thành phố “đỏ”, câu chuyện đang nhẹ nhàng bỗng rẽ thẳng vào chính trường. Nhắc đến những gì xảy ra kể từ ngày tổng thống Trump nắm quyền sinh sát, cô bạn tôi đề cập đến vật giá leo thang, vừa lạm phát vừa thuế quan, kinh tế bất ổn, đời sống bất an… Anh bạn mới của chúng tôi nghe đến đây lên tiếng cắt lời: “Dẫu có thế, so với nhiều người, nhiều xứ khác, người Mỹ vẫn còn đang sống trong may mắn. Và chúng ta nên biết ơn điều đó.” Anh khiến tôi liên tưởng đến thuyết “dân túy tàn bạo”, được Jay Kuo nhắc đến trong bài báo mới đăng của Ông trên Substack tuần qua.
Tuần trước, tình cờ tôi đọc được một bài viết của tác giả Vũ Kim Hạnh được chia sẻ lại qua Facebook. Bài viết có tựa đề là "Cơ hội vàng ở Mỹ sau mức thuế đối ứng 20%", trong đó bà nhắc riêng về kỹ nghệ xuất cảng gỗ của Việt Nam sang Hoa Kỳ và thế giới. Trước khi đi vào chi tiết của bài viết, có thể nhắc sơ về bà Vũ Kim Hạnh ắt đã quen thuộc với nhiều người trong nước. Bà từng là Tổng Biên Tập báo Tuổi Trẻ, cũng như nằm trong nhóm sáng lập tờ tuần báo Sài Gòn Tiếp Thị, từng là những tờ báo khá thành công tại Việt Nam.
Franklin D. Roosevelt (1882-1945), Tổng Thống Hoa Kỳ thứ 32 và là vị tổng thống Mỹ duy nhất phục vụ hơn 2 nhiệm kỳ, đã từng nói rằng, “Tự do của nền dân chủ không an toàn nếu người dân dung túng sự gia tăng của quyền lực cá nhân tới mức trở thành mạnh hơn chính nhà nước dân chủ đó. Điều đó trong bản chất là chủ nghĩa phát xít: quyền sở hữu của chính phủ thuộc về một cá nhân, một nhóm người, hay bất cứ thế lực cá nhân nào đang kiểm soát.” Lời cảnh giác đó của TT Roosevelt quả thật đã trở thành lời tiên tri đang ứng nghiệm trong thời đại hiện nay của nước Mỹ. Tổng Thống Donald Trump trong nhiệm kỳ đầu và gần 8 tháng của nhiệm kỳ hai đã thể hiện rõ ý chí và hành động của một nhà lãnh đạo muốn thâu tóm mọi quyền lực trong tay mình bất chấp những việc làm này có phá vỡ nền tảng tự do và dân chủ mà nước Mỹ đã nỗ lực không ngừng để tạo dựng và giữ gìn trong suốt hai trăm năm mươi năm qua hay không!
Từ lâu trong chính trị Mỹ vẫn tồn tại một quy tắc bất thành văn, khi thì nói lên to rõ “chúng ta tốt đẹp hơn như thế này,” hoặc có khi chỉ thì thầm, nhẹ nhàng, rằng đảng Dân Chủ không nên sa vào bùn lầy. Nhiều thập niên qua, “quy tắc” này đã định hình cả vận động tranh cử lẫn cách cầm quyền lãnh đạo. Tổng thống Barack Obama, bằng sự điềm tĩnh, được xem là bậc thầy về nghệ thuật này, ngay cả khi Donald Trump mở màn thuyết âm mưu “giấy khai sinh giả.” Tổng thống Joe Biden cũng vậy. Ông lèo lái đất nước sau đại dịch bằng chiến lược đặt niềm tin vào sự văn minh, đoàn kết, tin rằng lời kêu gọi phẩm giá có thể giữ thăng bằng cho con thuyền trong cơn chao đảo vì sóng dữ.
Trong nhiều tháng qua, các tài khoản chính thức của Bạch Ốc và Bộ Nội An trên mạng X liên tục tung ra hình ảnh và video (meme) dị hợm: từ ảnh ghép kèm âm thanh chế giễu, những đoạn đăng kiểu TikTok, cho đến tranh vẽ bằng trí tuệ nhân tạo. Đây không phải trò vui của vài nhân viên rảnh rỗi, mà là một chiến dịch có chủ ý, lặp đi lặp lại, như muốn răn: ai mới thực sự được coi là người Mỹ. Trang NPR ngày 18 tháng 8 nhận định: “Các tài khoản chính thức của chính quyền Trump đang khai thác đủ kiểu meme, hình ảnh AI với giọng điệu đầy thách thức trong các bài đăng trên mạng xã hội.”
Trước khi quay lại cùng cuộc họp song phương giữa Trump và Putin tại Alaska, hãy quay lại những cuộc họp giữa Donald Trump và lãnh tụ Bắc Hàn Kim Jong Un trong nhiệm kỳ đầu của Donald Trump. Lần đầu tiên, một đương kim tổng thống Hoa Kỳ đã hạ mình sang Châu Á đến ba lần, lần đầu tại Singapore, rồi Việt Nam và cuối cùng ngay tại khu phi quân sự giữa Nam-Bắc Hàn, để gặp và nâng cao vị thế một tay "Chí Phèo" cộng sản mặt sữa nhưng khét tiếng độc ác lên vị thế chính thức ngang hàng với Hoa Kỳ trên chính trường quốc tế.
Trong căn phòng trắng, lổm chổm những mảng phù điêu mạ vàng trên trần nhà và tường, một người đàn ông mảnh khảnh, nhanh nhẹn bước ra giới thiệu trước ống kính báo chí món quà đặc biệt ông cố ý mang theo tặng Tổng thống Donald Trump. Đó là lần hiếm hoi CEO của hãng Apple, Tim Cook, xuất hiện trong trang phục sơ mi cà vạt vest đen. Ngay cả trong những lần ra mắt sản phẩm iPhone mới hàng năm, vốn được xem là sự kiện quan trọng bật nhất của Apple, người ta cũng không thấy Cook phải bó mình trong bộ lễ phục trịnh trọng như vậy. Tim Cook đã mang đến cho các tín đồ của trái táo một sự bất ngờ, giống như 15 năm trước, ông xuất hiện trên tạp chí Out ở vị trí đầu bảng xếp hạng Power 50, một danh sách xếp hạng những cá nhân đồng tính nam và đồng tính nữ có ảnh hưởng nhất vào thời điểm đó.
Trong những tháng qua, thảm họa đói của người Palestine ở dải Gaza đã làm thế giới rúng động. Tin tức về trẻ em Palestine bị bắn chết trong khi cố len lỏi tới rào sắt để nhận thức ăn viện trợ được truyền đi; nhiều người đặt câu hỏi về lương tri của những kẻ tổ chức “công tác nhân đạo” này (công ty Gaza Humanitarian Foundation do chính phủ Trump hậu thuẫn). UN ước tính có khoảng 1,400 người Palestine đã chết khi tìm cách nhận thực phẩm cứu trợ. Vào tháng 12 năm 2023, Nam Phi đã đệ đơn kiện Israel lên Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) cáo buộc quốc gia này phạm tội diệt chủng ở Gaza. Một số quốc gia khác tham gia hoặc bày tỏ sự ủng hộ đối với vụ kiện, bao gồm: Nicaragua, Bỉ, Colombia, Thổ Nhĩ Kỳ, Libya, Ai Cập, Maldives, Mexico, Ireland, Chile Palestine…
Trí nhớ của một cộng đồng không chỉ mất đi khi thời gian làm phai mờ, mà có khi có bàn tay cố tình tháo gỡ. Không cần nhiều bút mực, chỉ cần bỏ vài dòng, thay một chữ, hoặc xóa một đoạn – câu chuyện lập tức đổi nghĩa. Lịch sử hiện đại đã nhiều lần chứng kiến điều đó. Năm 1933, chính quyền Quốc xã Đức đốt sách giữa quảng trường, thay lại giáo trình, đặt viện bảo tàng và văn khố dưới quyền Bộ Tuyên Giám. Joseph Goebbels nói: “Chúng ta không muốn người dân sử dụng cái đầu. Chúng ta muốn họ hành xử theo cảm tính.” Tám thập niên sau, ở một góc khác của địa cầu, những bản thảo của Trương Vĩnh Ký – người khai sáng nền quốc ngữ Việt – bị loại khỏi thư viện vì bị gán là “tay sai thực dân”. Sau 1975, chính quyền cộng sản xét duyệt văn hóa trên toàn quốc: các tác phẩm học thuật bị cấm; bị đốt, tên tuổi các học giả và nhà văn miền Nam biến mất khỏi mọi tiến trình văn hóa. Tại Hoa Kỳ ngày nay, sự thật không bị đấu tố – nhưng bị biên tập lại.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.