Hôm nay,  

Tính Dễ Mến Của Các Nghệ Sĩ Mà Tôi Được Biết

9/10/200900:00:00(View: 10294)

Tính Dễ Mến Của Các Nghệ Sĩ Mà Tôi Được Biết 

Đòan Thanh Liêm
Tôi là người chuyên họat động xã hội, nên có dịp gặp gỡ với rất nhiều giới trong xã hội. Đặc biệt sau năm 1975, giữa cái thời “thất cơ lỡ vận”, thì lại hay gặp bà con đồng cảnh ngộ để mà an ủi, nâng đỡ tinh thần cho nhau. Nay đã tới cái tuổi “thất thập cổ lai hy” rồi, mà nhớ lại bao nhiêu kỷ niệm vui có, buồn có với bà con, bằng hữu, nhiều khi tôi cảm động đến ứa nước mắt. Trong bài viết này, tôi xin ghi lại những nét dễ mến của các nghệ sĩ mà tôi có duyên được quen biết thân thương, trong những năm qua ở Việt nam cũng như ở bên đất Mỹ.
1/ Nhà văn Nguyễn Thụy Long (1938-2009)
Tác giả cuốn truyện “Loan Mắt Nhung” vừa mới lìa đời tại Saigon vào đầu tháng Chín 2009 là một nhà văn có sức sáng tác thật phong phú, mặc dầu cuộc sống của anh gặp nhiều nỗi truân chuyên vất vả, nặng nhọc. Sau năm 1975, qua nhà báo Sao Biển Trần Ngọc Thanh, vốn là anh em cột chèo, tôi có dịp gặp gỡ với nhiều anh em nghệ sĩ mà hầu hết đều đã bị đi tù, như nhà báo Thái Dương, đạo diễn Hòang Vĩnh Lộc, nhà văn Nguyễn Thụy Long v.v…Lũ con của Sao Biển vẫn gọi là bác” Long Râu”, để phân biệt với bác “Long Đất”.
Trong nhiều năm Long Râu và Sao Biển cặp kè đi “buôn chui” chung với nhau, với mỗi người cỡi chiếc xe đạp về tận các miền quê ngọai ô mua gạo, thịt cá và cả rượu đế... đem vế bán tại thành phố. Nhưng nhiều lúc bị tóan “quản lý thị trường” phục kích đón đường tịch thu hết tất cả hàng hóa. Có lần cả hai người mặt mày tiu nghỉu, bơ phờ ghé qua nhà tôi, vừa mệt nhọc, khát nước đói bụng, lại vừa buồn bã vì mất hết cả vốn liếng. Bà xã nhà tôi bèn phải vội vàng nấu tạm chén mì cho hai anh em ăn đỡ cầm hơi. Trải qua những lúc ngặt nghèo như thế, chúng tôi lại càng gắn bó thân thương với nhau, và càng có dịp tâm sự vơi đày với nhau. Tính Long thật hiền khô, nhẫn nại, chịu đựng và lúc nào cũng tỏ sự quý mến với gia đình chúng tôi. Anh không nói gì nhiều hay than vãn gì về nghịch cảnh phải trải qua, nhưng vợ chồng chúng tôi thì rất thông cảm chia sẻ với nỗi khó khăn bế tắc của Long suốt những năm tháng đằng đẵng như thế.
Nay Long vừa từ giã cõi đời trong sự thương tiếc của biết bao nhiêu bà con, bằng hữu, và nhất là của số đông độc giả đã từng mến mộ văn tài của anh, tôi xin cầu chúc Anh được luôn thanh thản nơi Cõi Vĩnh Hằng, thóat được những phiền lụy nơi cõi thế gian này.
2/ Họa sĩ Nguyễn Thị Hợp.
Bắt đầu từ tháng 9/2009, thì anh chị Nguyễn Đồng/Nguyễn Thị Hợp bắt đầu nghỉ hưu và chỉ còn làm việc bán thời gian tại ban Kỹ thuật cho báo Người Việt. Cặp uyên ương họa sĩ “tình Bắc duyên Nam” này thật là tâm đầu ý hợp với nhau dễ đến trên 40 năm rồi. Chị Hợp là người con gái từ đất “Quan Họ Bắc ninh”, lúc nào cũng nhẹ nhàng thanh thóat trong lối ứng xử, cũng như trong công việc chuyên môn nghệ thuật. Tôi lại còn mến chị hơn, khi biết được chị Hợp chính là người cháu của giáo sư Nguyễn Tường Phượng vốn là một bậc thầy dậy yêu quý của tôi tại Trung học Chu Văn An ở Hanoi trước 1954.
Ngòai sự thành công về nghệ thuật với bao nhiêu tác phẩm có giá trị cao đã từng được công chúng ưa chuộng, anh chị Hợp Đồng đã đóng góp rất nhiều cho việc minh họa bao nhiêu là sách, báo, tạp chí. Anh chị làm việt miệt mài tại cơ quan, cũng như tại tư gia. Nhất là còn để giúp các tổ chức từ thiện nhân đạo, cụ thể như vài năm gần đây chị đã tặng một búc tranh rất giá trị cho Mạng Lưới Nhân Quyền Việt nam để bán đấu giá gây quỹ cho tổ chức chúng tôi. Chúng tôi lại còn có chung với nhau một số đông các bạn mà hiện còn ở lại Việt nam, điển hình như chị Hùynh Thanh Vân là bà xã của cố giáo sư Nguyễn Ngọc Lan, anh Nguyễn Ngọc Thạch mà hồi trước 1975 hay viết cho mục ký tên “Tư Trời Biển” v.v…
Có thể nói chị Hợp là hiện thân của truyền thống đạo hạnh tu thiền đã có từ lâu đời trong một số gia tộc ở nước ta. Trong một xã hội đày biến động với bạo lực giả dối trong nhiều lãnh vực, chúng ta rất cần đến những tâm hồn bình thản, thóat tục như anh chị Hợp Đồng vậy.
3/ Họa sĩ Bé Ký.
Tài năng của họa sĩ Bé Ký đã được khẳng định từ trên nửa thế kỷ nay, không những ở Việt nam, mà còn ở nhiều nơi trên thế giới như ở Pháp, ở Nhật, ở Mỹ nữa. Chị giáo sư Phan Ngọc Quới đã từng viết về Bé Ký trên báo Times of Vietnam hồi năm 1957-58. để giới thiệu tài năng mới này cho giới thưởng ngọan người Mỹ ở Saigon thời đó. Từ ngày qua Mỹ năm 1996 đến nay, tôi lại có duyên được gần gũi quen biết thân thương rất nhiều với cặp vợ chồng họa sĩ Bé Ký/Hồ thành Đức. Hồi năm 2001-02, lúc cộng tác với báo Viễn Đông của nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang, tôi hay được hai vợ chồng họa sĩ này cho ăn cơm trưa vì tòa báo trên đại lộ Bolsa ở ngay bên kia đường, đói diện với cư xá của họ. Tôi còn được biết là hai người rất quý mến Luật sư Nghiêm Xuân Hồng là bậc tu thiền rất đạt đạo vào những năm cuối đời. Bé Ký muốn xin vẽ búc ảnh để làm kỷ niệm, mà Luật sư Hồng lại không chịu, ông nói “không muốn lưu lại hình tướng” nào trước lúc lìa đời.


Từ nhiều năm nay, Bé Ký bị bệnh lãng tai, phải nói thật lớn thì mới nghe rõ. Nhưng chị vẫn siêng năng đọc báo, mỗi ngày đọc hết cả 3-4 tờ nhật báo xuất bản ở miền Nam California. Chị rõ rệt là một người có “trái tim Bồ Tát” giàu lòng thương cảm nhân hậu đối với những người gặp cảnh khó khăn bế tắc. Cụ thể anh chị Bé Ký/Hồ Thành Đức đã cho đến cả mấy chục bức tranh để giúp các tổ chức từ thiện nhân đạo bán đấu giá để gây quỹ (fundraising), điển hình cho tổ chức SAP/VN, cho Mạng Lưới Nhân Quyền VN v.v… Anh chị lại còn được tổ chức “Artists for Human Rights” (AFHR = Nghệ sĩ phục vụ Nhân quyền) mời tham gia triển lãm để gây quỹ cho Hội nữa. Đây quả là một vinh dự không những cho bản thân anh chị, mà còn cho cả cộng đồng người Việt ở hải ngọai nữa.
4/ Họa sĩ Vũ Hối.
Họa sĩ Vũ Hối đã thành danh từ trên 50 năm, đã được Tổng thống Kennedy tiếp kiến năm 1963, và gần đây vào năm 1995 lại được cả Tổng thống Vaclac Havel của Tiệp khắc tiếp kiến nữa. Ông còn nổi danh với trường phái “Thư Họa” (calligraphy), rồi gần đây còn phát triển cả về bộ môn nhiếp ảnh và làm thơ nữa. Đến nỗi trong một tác phẩm có cả bốn bộ môn : “Thi, Thư, Ảnh, Họa” đều được gồm chung trong khung cảnh một bức tranh. Đã có nhiều địa phương tổ chức “Vinh Danh Họa sĩ Vũ Hối vì công trình 50 Năm Hoật Động Văn Hóa - Nghệ Thuật “, mà mới nhất đây tại vùng thủ đô Washington DC vào đầu tháng 8/2009.
Nhưng ngòai cái tài năng xuất chúng này, Vũ Hối lại là một con người chân chất, bao dung nhân hậu. Anh được sự yêu mến quý chuộng của rất đông đảo bạn bè tại khắp nơi, và hay được mời đi triển lãm ra mắt công chúng tại nơi có nhiều người Việt định cư sinh sống. Là người tù nhân chính trị bị tra tấn hành hạ đến hư mất cả một con mắt, ấy thế mà anh vẫn không hề biểu lộ sự hận thù ghét bỏ gì đối với người đã hành hạ, đối xử tàn tệ độc ác đối với mình. Đó là một thái độ cao cả, khoan dung độ lượng của bậc sĩ phu quân tử ngay đối với kẻ thù của mình.
Ngòai ra tôi còn được chứng kiến sự tham gia đóng góp rất là hào phóng tích cực của anh trong các tổ chức gây quỹ cho công tác từ thiện nhân đạo của nhiều hội đòan, đặc biệt là của giới sinh viên, học sinh.
Mấy lần đến thăm gia đình anh ở Maryland gần miệt thủ đô Washington DC, tôi được chứng kiến cái cảnh gia đình thuận hòa êm thắm, hai anh chị cùng với lũ con và cháu rất đông đều sống chung nhau dưới một mái nhà rộng rãi khang trang mà lại rất ngăn nắp gọn gàng, sạch sẽ. Vào tháng 6/2009 vừa đây, tôi đã đến thăm anh ở một thành phố gần với Baltimore, thì tất cả gia đình với 16 người vừa con, vừa cháu mà sinh sống an vui, đằm thắm cả ba thế hệ với nhau. Rõ rệt đây là điều hiếm có trong xã hội ở nước Mỹ ngày nay vậy.
5/ Nhà văn Dõan Quốc Sĩ
Vừa là nhà giáo, vừa là nhà văn, nên văn phong của tác giả lão thành Dõan Quốc Sĩ tóat ra một nhân cách hiền lành, dịu dàng của một ông thầy vừa có lương tâm chức nghiệp, yêu mến học trò, mà vừa có lòng say mê đối với công việc chung của xã hội, của đất nước. Thế hệ sinh viên di cư từ miền Bắc năm 1954 như chúng tôi, thì tất cả đều quen biết anh Sĩ, vì gia đình anh ở trong cùng một khu vực Đại học xá Minh Mạng ở Chợ Lớn. Mà anh lại tham gia viết báo lúc đầu với đặc san “Lửa Việt”, rồi sau này với tạp chí “Sáng Tạo” cùng với các anh Trần Thanh Hiệp, Mai Thảo, Nguyễn Sỹ Tế, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên v.v…
Sau năm 1975, cùng với nhiều văn nghệ sĩ khác, anh bị đi tù mãi trên miệt cao nguyên Pleiku, Kontum. Rồi còn bị bắt lại lần thứ hai với mức án khá nặng, lien hệ đến việc gửi bài vở ra đăng báo ở nước ngòai.Khi anh Sĩ bị tù lần thứ hai, tôi có mấy lần đến thăm chị ở khu Trần Bình Trọng/Thành Thái . Chị Sĩ là ái nữ của nhà thơ trào phúng nổi tiếng trong Nhóm Tự Lực Văn Đòan hồi tiền chiến, đó là Cụ Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu. Sau năm 1954, gia đình ông cụ ở lại ngòai Bắc. Chị kể lại là : Có lần cơ quan an ninh văn hóa ở Hanoi mời ông cụ đến để cho cụ xem một số sách báo do anh Sĩ viết ở miền Nam, và họ hạch sách cụ là “sao ông để cho con rể ông lại viết bài chống lại đảng và nhà nước thế này"” Ông cụ bèn trả lời “Hắn là con rể, mà đã xa cách chúng tôi từ hồi hai vợ chồng cưới nhau từ cái thời kháng chiến chống Pháp, chúng tôi có liên lạc được với nhau bao giờ đâu. Như vậy, làm sao mà lại bắt cha mẹ vợ chịu trách nhiệm về hành vi của người con rể đã xa cách cả mấy chục năm nay rồi"” Anh Sĩ lại còn là người rất thân thiết với Luật sư Trần Văn Tuyên là bậc đàn anh rất quý mến của tôi trong Luật sư Đòan Tòa thượng Thẩm Saigon trước năm 1975. Cả hai ông bà Luật sư Tuyên đều rất quý mến tài năng và tư cách của anh Sĩ.
Nhân tiện tôi cũng xin kể lại việc trong một dịp khác đến thăm chị Sĩ, tôi cũng được gặp bà cụ thân mẫu của anh Sĩ nữa. Cụ sống ở ngòai Bắc với con trai khác là Dõan Nho là một sĩ quan ngành quân nhạc. Bà cụ tuy lớn tuổi, nhỏ người nhưng vẫn còn lanh lợi, minh mẫn. Tôi thấy rõ ràng anh Sĩ được thừa hưởng cái nết na của bà mẹ hiền này, đúng như dân gian ta thường nói: “ Phúc Đức tại Mẫu”. 
Bài viết này tới đây đã dài rồi, mà tôi vẫn còn muốn viết về nhiều nhân vật nghệ sĩ có tính tình dễ mến khác nữa. Như vậy, tôi xin khất để trong những bài sau, tôi sẽ viết tiếp để hầu chuyện quý độc giả nhé./
California, Mùa Vu Lan Kỷ sửu 2009.

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.