Hôm nay,  

Cô Sâm

01/11/201100:00:00(Xem: 8446)

Cô Sâm

LPK 55-62 Captovan

Kính thưa cô.

Nghe tin anh Sơn, một học cựu học sinh L. Petrus Ký, học trò của cô, vừa về thăm quê hương và đến thăm cô nhưng đã trễ, chỉ được thắp nhang trước bàn thờ của cô, bản tin ngắn ngủi này đến với em vào chiều tối Thứ Bẩy 29 tháng 11 năm 2011 đã khiến em ngưng tất cả mọi công việc để nhớ về cô, để chọn màu mực xanh viết về cô ở tuổi thanh xuân và em mới chỉ là một học trò lớp Đệ Thất của cô.

Thưa cô! Đã 56 năm rồi, hơn nửa đời người, trải qua biết bao thăng trầm từ một học sinh rời trường L.Petrus Ký rồi vào Võ Bị, 13 năm lính, 10 năm tù cải tạo, hơn 20 năm lao đao lận đận tỵ nạn xứ người, nay được biết tin cô đã quy tiên em bỗng cảm thấy một nỗi buổn man mác. Em thú thật với cô là không chảy nước mắt khi nghe tin cô mất, nhưng nếu em nói dối là có khóc như năm xưa đã nói dối cô khi không thuộc bài là cô biết ngay em nói láo, lửa thầy, làm sao có thể nói dối được với ngưởi đã khuất. Nhưng chắc ở chốn bình yên nào đó cô đang chứng giám lòng thành của cậu trò nhỏ năm xưa đang nghĩ nhiều về cô, nhớ và viết những kỷ niệm về cô.

Nếu có ai hỏi họ của cô là gì thì em quên rồi mà chỉ nhớ tên cô là Sâm, cô Sâm dậy môn Sử Địa lớp Đệ Thất niên khóa 55-56, và nhà của cô ở khu cư xá giáo sư phía sau trường, gần phía đường Nguyễn Hoàng, em biết được điều đó là do những lẩn tập thể dục với thầy Bích ở sân vận động thì thấy cô đi về hướng đó chứ em đâu có học giỏi để được cô sai ôm tập đem theo về nhà để cô chấm bài. Em cũng nhớ các cô Dung, cô Hồng, cô Ngà v.v.. và thầy toán hình học Nguyễn Văn Binh, thầy Pháp Văn Phạn Văn Ba, thầy Đảnh, thầy Đính lý hóa, thẫy Võ Trọng Phỏng, thầy Đồ và thầy Thái dậy Anh Văn, thầy Tạ Ký, thầy Thái Chí, thầy Trần Thượng Thủ tức thầy TTT mà thầy thường khôi hài là trong túi thầy lúc nào cũng có cái lược v.v.. Nhưng mỗi khi gặp bạn cùng lớp, nhắc về thầy cũ trường xưa thì vị giáo sư thường được các em nhắc đến đầu tiên là “Cô SÂM” dậy Sử Địa, bởi vì tuy cô còn trẻ, còn độc thân, chỉ là vai chị của các em học sinh, nhưng cô có một tấm lòng, một tình thương của một người mẹ hiền.

“Nhất quỷ, nhì ma, thứ ba là học trò LPK”, tuổi 11, 12, thì biết sợ là gì đâu, cứ nghịch cứ phá nhưng khi nghe tiếng thước kẻ gõ cạch-cạch trên bàn, ngước lên thấy cô mỉm cười là đám giặc im phăng phắc, lúc đó thấy cô đẹp và dễ thương làm sao! Nay tuy đã bước vào tuổi “cổ lai y” mà nhớ về kỷ niệm xưa em vẫn cảm thấy nhỏ bé trước hinh ảnh của cô và cô là hiền mẫu của em lúc này. Hiện cô là người cõi trên, thấy hết, biết hết thì sao em dám nói dối cô được.

Có một lần thằng quỷ sứ Nguyễn Xuân Thanh ngồi bàn sau, nó lấy giấy cuộn lại rồi gài vào lưng quần em rồi quẹt diêm (quẹt) đốt, giật mình nóng quá em nhẩy lên bàn rồi kêu chí chóe, sợ muốn khóc, cô xuống lấy tay cốc-cốc nhẹ vảo đầu thằng Thanh rồi cô vỗ vỗ vai em để an ủi em nhưng em vẫn tức, đánhg lẽ cô phải tát tai, vả miệng cho xưng môi nó lên chứ, sao chỉ cốc-cốc nhè nhẹ thôi" Lúc đó em nghĩ hay là cô cũng kỳ thị Bắc Nam, cô bênh thằng Nam Kỳ con Xuân Thanh còn cô không thương thằng nhóc tì Bắc Kỳ di cư 1954 là em, sau dần dà rồi em mới hiểu cô thương tất cả, tất cà cùng là con, là gà cũng một mẹ Sâm Sử Địa.

Cô không biết chứ lúc đó em khổ lắm, sợ tụi bạn cùng lớp Nam Kỳ lắm, vì chỉ một mình em là Bắc Kỳ di cư, còn dư lại là dân Nam Kỳ quốc, em bị mặc sức làm bù nhìn cho chúng trêu chọc, em giận lắm nhưng đành nhịn rồi nhớ ghi xương khắc cốt từng tên để sau này trả thù, người quân tử 20 năm sau trả thù chưa muộn, nhưng rất tiếc là 20 năm sau, một số bọn chúng đã trở thành người “quân tử”, đám còn lại thì gặp nhau trên chiến trường còn vương khói súng thì ôm nhau cười, chỉ tay về phía trước, “kẻ thù của tao ở đằng kia, còn tao và mày là anh em là con của Cô Sâm Sử-Địa”.

Hỡi nhưng tên “quỷ ma học trò Đệ Thất B1 55-56 là Cao Hoàng Anh, Đặng Văn Ba, Ngô Văn Bê, Bửu, Cảnh, Cần, Cẩn, Chí, Chí, Chiểu, Dương, Đạt, Điện, Đởm, Đức, Hiếu, Hòa, Hoàng, Huệ, Hưng, Khoa-Lé, Khải, Khiết, Khôi, Kỵ-Chột Phạm Huỳnh Tam-Lang, Long-Trên, Long-Dưới Thanh, Tư Xe Bò, Tư Tù-Ti v.v..tụi bay ở đâu" Những thằng đã là “quân tử” thì đến gõ cửa nhà trời thăm cô, nhựng tên còn nặng nợ trần gian, dù hiện ở trong nước hay tỵ nạn hải ngoại thì báo tụi bay biết để dâng lên cô 3 nén nhang, xin cô thương tha lổi cho chúng em và phù hộ cho các cựu học sinh LPKY cùng đệ đơn lên Thiên Quốc để đòi lại cái giấy khai sinh cho trường mẹ, trưởng Trung Học Petrus Trương Vĩnh Ký.

Little Saigon 12 giờ đêm 29/10/2011.

Em vừa dâng lên Cô 3 nén nhang xong.

LPK 55-62 Captovan

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Các cuộc xung đột giữa Do Thái với Palestine cùng khối Ả Rập là vấn đề nan giải cho Hoa Kỳ lẫn thế giới bởi Do Thái không hề nhượng bộ, luôn có những hành động cứng rắn và trả đũa tàn bạo. Cuộc xung đột hiện nay xảy ra khi Do Thái trục xuất sáu gia đình Palestine tại Đông Jerusalem, là điều mà Do Thái từng bước thực hiện với người dân Palestine từ nhiều năm qua.
Tôi yêu những nông dân thôn Hoành, tôi yêu những nông dân Dương Nội. Yêu cái hồn của đất – nơi con người đang phải đối mặt với phong ba bão táp; nơi con người bước trên nghịch cảnh bằng sự cao quý và khí phách của riêng mình. Tôi có một niềm tin vững chắc rằng lòng tử tế và sự dũng cảm của họ sẽ lan toả và lan rộng.
Từ Văn phòng Viện Tăng Thống, tuy chỉ tồn tại trên danh nghĩa, trong phận sự bảo trì ấn tín của Viện Tăng Thống, kế thừa tâm nguyện của Đức Đệ Ngũ Tăng Thống qua phú chúc di ngôn của Ngài trước ngày thị tịch; chúng tôi trên nương tựa uy đức Tăng già và đạo lực gia trì của Chư tôn Trưởng lão, kính gởi đến Chư tôn Hòa Thượng, Chư Thượng tọa, Đại đức Tăng-già nhị bộ, cùng tất cả bốn chúng đệ tử, tâm nguyện Bồ-đề được thể hiện qua các kỳ họp đã nêu, ước mong tất cả bằng Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành, bằng đức lực, trí lực, và tài lực, với hằng tâm và hằng sản, đồng tâm nhất trí góp phần công đức vào sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh mà Chư Thánh Đệ tử, Lịch đại Tổ sư, bằng hùng lực và trí tuệ, bằng từ bi và nhẫn nhục, khoan dung, trải qua vô vàn gian nan chướng duyên trở ngại, đã mang ngọn đèn chánh pháp đến những nơi tăm tối, cho những ai có mắt để thấy, dựng dậy những gì đã sụp đổ, dựng đứng những gì đang nghiêng ngả.
Ngày Phật đản sanh là ngày vui, ngày thiêng liêng và trọng đại của nhân loại. Dù là với truyền thống nào, tông môn pháp phái nào, dù ở quốc độ nào… Người con Phật cũng đều hoan hỷ và thanh tịnh thân tâm để tưởng niệm đức Phật.
Thì tôi cũng nói cho hết lẽ như thế. Chớ bao nhiêu lương dân ở Văn Giang, Dương Nội, Thủ Thiêm, Lộc Hưng… đang sống yên lành mà Đảng & Nhà Nước còn có thể nhẫn tâm biến họ thành những đám dân oan (vật vã khắp nơi) thì cái chính phủ hiện hành có xá chi đến những khúc ruột thừa ở Cambodia.
Bàn về kinh tế không thể không nhắc đến tiền. Tiền không mua được hạnh phúc nhưng không có tiền thì…đói. Tiền mang lại tự do (có tiền mua tiên) hay biến con người thành nô lệ đồng tiền. Con nít lên 3 đã biết tiền dùng để mua bánh kẹo, vậy mà các kinh tế gia giờ này vẫn không đồng ý chuyện tiền để làm chi!
Sau ngày 30/4/1975, nếu phe chiến thắng đã có những chính sách mang lại sự hoà giải quốc gia, đối xử nhân bản với bên thua trận, thay vì cải tạo học tập, càn quét và thiêu huỷ văn hoá miền Nam, đánh tư sản mại bản, thì đã không có hàng triệu người bỏ nước ra đi và người Việt sẽ chẳng mấy ai còn nhớ đến một đất nước của quá khứ, tuy chưa hoàn toàn tự do dân chủ nhưng so với Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thì người dân đã được tự do hơn bây giờ rất nhiều.
Tất nhiên phải “thành công” vì đảng một mình một chợ, không có ai cạnh tranh hay đòi chia phần. Nhưng việc đảng chọn cho dân bầu chỉ để tuyên truyền cho phương châm “ý đảng lòng dân”, trong khi người dân không có lựa chọn nào khác mà buộc phải đi bỏ phiếu để tránh bị làm khó trong cuộc sống.
Âm nhạc dễ đi vào lòng người, với hình bóng mẹ, qua lời ca và dòng nhạc, mỗi khi nghe, thấm vào tận đáy lòng. Trước năm 1975, có nhiều ca khúc viết về mẹ. Ở đây, tôi chỉ đề cập đến những ca khúc tiêu biểu, quen thuộc đã đi vào lòng người từ ngày sống trên quê hương và hơn bốn thập niên qua ở hải ngoại.
Những bà mẹ Việt xưa nay rất chơn chất thật thà, rất đơn sơ giản dị cả đời lo cho chồng con quên cả thân mình. Sử Việt nghìn năm đương đầu với giặc Tàu, trăm năm chống giặc Tây. Những bà mẹ Việt bao lần âm thầm gạt lệ tiễn chồng con ra trận, người đi rất ít quay về. Những bà mẹ âm thầm ôm nỗi đau, nỗi nhớ thương da diết.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.