Hôm nay,  

Cô Sâm

01/11/201100:00:00(Xem: 8453)

Cô Sâm

LPK 55-62 Captovan

Kính thưa cô.

Nghe tin anh Sơn, một học cựu học sinh L. Petrus Ký, học trò của cô, vừa về thăm quê hương và đến thăm cô nhưng đã trễ, chỉ được thắp nhang trước bàn thờ của cô, bản tin ngắn ngủi này đến với em vào chiều tối Thứ Bẩy 29 tháng 11 năm 2011 đã khiến em ngưng tất cả mọi công việc để nhớ về cô, để chọn màu mực xanh viết về cô ở tuổi thanh xuân và em mới chỉ là một học trò lớp Đệ Thất của cô.

Thưa cô! Đã 56 năm rồi, hơn nửa đời người, trải qua biết bao thăng trầm từ một học sinh rời trường L.Petrus Ký rồi vào Võ Bị, 13 năm lính, 10 năm tù cải tạo, hơn 20 năm lao đao lận đận tỵ nạn xứ người, nay được biết tin cô đã quy tiên em bỗng cảm thấy một nỗi buổn man mác. Em thú thật với cô là không chảy nước mắt khi nghe tin cô mất, nhưng nếu em nói dối là có khóc như năm xưa đã nói dối cô khi không thuộc bài là cô biết ngay em nói láo, lửa thầy, làm sao có thể nói dối được với ngưởi đã khuất. Nhưng chắc ở chốn bình yên nào đó cô đang chứng giám lòng thành của cậu trò nhỏ năm xưa đang nghĩ nhiều về cô, nhớ và viết những kỷ niệm về cô.

Nếu có ai hỏi họ của cô là gì thì em quên rồi mà chỉ nhớ tên cô là Sâm, cô Sâm dậy môn Sử Địa lớp Đệ Thất niên khóa 55-56, và nhà của cô ở khu cư xá giáo sư phía sau trường, gần phía đường Nguyễn Hoàng, em biết được điều đó là do những lẩn tập thể dục với thầy Bích ở sân vận động thì thấy cô đi về hướng đó chứ em đâu có học giỏi để được cô sai ôm tập đem theo về nhà để cô chấm bài. Em cũng nhớ các cô Dung, cô Hồng, cô Ngà v.v.. và thầy toán hình học Nguyễn Văn Binh, thầy Pháp Văn Phạn Văn Ba, thầy Đảnh, thầy Đính lý hóa, thẫy Võ Trọng Phỏng, thầy Đồ và thầy Thái dậy Anh Văn, thầy Tạ Ký, thầy Thái Chí, thầy Trần Thượng Thủ tức thầy TTT mà thầy thường khôi hài là trong túi thầy lúc nào cũng có cái lược v.v.. Nhưng mỗi khi gặp bạn cùng lớp, nhắc về thầy cũ trường xưa thì vị giáo sư thường được các em nhắc đến đầu tiên là “Cô SÂM” dậy Sử Địa, bởi vì tuy cô còn trẻ, còn độc thân, chỉ là vai chị của các em học sinh, nhưng cô có một tấm lòng, một tình thương của một người mẹ hiền.

“Nhất quỷ, nhì ma, thứ ba là học trò LPK”, tuổi 11, 12, thì biết sợ là gì đâu, cứ nghịch cứ phá nhưng khi nghe tiếng thước kẻ gõ cạch-cạch trên bàn, ngước lên thấy cô mỉm cười là đám giặc im phăng phắc, lúc đó thấy cô đẹp và dễ thương làm sao! Nay tuy đã bước vào tuổi “cổ lai y” mà nhớ về kỷ niệm xưa em vẫn cảm thấy nhỏ bé trước hinh ảnh của cô và cô là hiền mẫu của em lúc này. Hiện cô là người cõi trên, thấy hết, biết hết thì sao em dám nói dối cô được.

Có một lần thằng quỷ sứ Nguyễn Xuân Thanh ngồi bàn sau, nó lấy giấy cuộn lại rồi gài vào lưng quần em rồi quẹt diêm (quẹt) đốt, giật mình nóng quá em nhẩy lên bàn rồi kêu chí chóe, sợ muốn khóc, cô xuống lấy tay cốc-cốc nhẹ vảo đầu thằng Thanh rồi cô vỗ vỗ vai em để an ủi em nhưng em vẫn tức, đánhg lẽ cô phải tát tai, vả miệng cho xưng môi nó lên chứ, sao chỉ cốc-cốc nhè nhẹ thôi" Lúc đó em nghĩ hay là cô cũng kỳ thị Bắc Nam, cô bênh thằng Nam Kỳ con Xuân Thanh còn cô không thương thằng nhóc tì Bắc Kỳ di cư 1954 là em, sau dần dà rồi em mới hiểu cô thương tất cả, tất cà cùng là con, là gà cũng một mẹ Sâm Sử Địa.

Cô không biết chứ lúc đó em khổ lắm, sợ tụi bạn cùng lớp Nam Kỳ lắm, vì chỉ một mình em là Bắc Kỳ di cư, còn dư lại là dân Nam Kỳ quốc, em bị mặc sức làm bù nhìn cho chúng trêu chọc, em giận lắm nhưng đành nhịn rồi nhớ ghi xương khắc cốt từng tên để sau này trả thù, người quân tử 20 năm sau trả thù chưa muộn, nhưng rất tiếc là 20 năm sau, một số bọn chúng đã trở thành người “quân tử”, đám còn lại thì gặp nhau trên chiến trường còn vương khói súng thì ôm nhau cười, chỉ tay về phía trước, “kẻ thù của tao ở đằng kia, còn tao và mày là anh em là con của Cô Sâm Sử-Địa”.

Hỡi nhưng tên “quỷ ma học trò Đệ Thất B1 55-56 là Cao Hoàng Anh, Đặng Văn Ba, Ngô Văn Bê, Bửu, Cảnh, Cần, Cẩn, Chí, Chí, Chiểu, Dương, Đạt, Điện, Đởm, Đức, Hiếu, Hòa, Hoàng, Huệ, Hưng, Khoa-Lé, Khải, Khiết, Khôi, Kỵ-Chột Phạm Huỳnh Tam-Lang, Long-Trên, Long-Dưới Thanh, Tư Xe Bò, Tư Tù-Ti v.v..tụi bay ở đâu" Những thằng đã là “quân tử” thì đến gõ cửa nhà trời thăm cô, nhựng tên còn nặng nợ trần gian, dù hiện ở trong nước hay tỵ nạn hải ngoại thì báo tụi bay biết để dâng lên cô 3 nén nhang, xin cô thương tha lổi cho chúng em và phù hộ cho các cựu học sinh LPKY cùng đệ đơn lên Thiên Quốc để đòi lại cái giấy khai sinh cho trường mẹ, trưởng Trung Học Petrus Trương Vĩnh Ký.

Little Saigon 12 giờ đêm 29/10/2011.

Em vừa dâng lên Cô 3 nén nhang xong.

LPK 55-62 Captovan

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi đối với cha mẹ có thể cung kính mà vui vẻ, mới là tận Hiếu. Chữ “Kính” nhấn mạnh việc không để xảy ra sơ suất dù rất nhỏ, phụng dưỡng cha mẹ già xuất phát từ nội tâm, với khuôn mặt vui vẻ, mới có thể nói là “Hiếu.” Người già không khác những đứa trẻ, nhiều khi hay tủi thân, hờn dỗi và dễ phiền muộn. Con cái có thể cho cha mẹ ăn uống, hầu hạ cha mẹ khuya sớm nhưng rất khó biết đến nỗi buồn của cha mẹ lúc về già.
Giáo hội xin tán thán tinh thần hộ đạo và tu đạo của quí Thiện nam Tín nữ trong hoàn cảnh tai ương đầy kinh hãi hiện nay. Tất cả năng lực và công đức lớn lao này của người đệ tử, chúng con xin dâng lên cúng dường đức Thế Tôn trong ngày Đản sinh. Hàng trăm ngàn trái tim, hàng vạn ngàn bàn tay siết chặt giữa những thương đau tràn ngập của nhân loại, chúng con nguyện quán chiếu thật sâu sự khổ nạn hiện nay để kiên nhẫn mà vượt qua.
Có lẽ cả Trung Cộng lẫn Hoa Kỳ đều không mong muốn việc khơi mào cho một cuộc xung đột vũ trang, nhưng trước thái độ xác quyết của tổng thống Joe Biden, Trung Cộng hiểu rằng họ đang đối đầu với một đối thủ nguy hiểm gấp bội lần so với những năm qua.
Với chế độ độc đảng toàn trị hiện hành, với bộ máy tam trùng hiện tại, với văn hoá tham nhũng hiện nay, và với chủ trương cấm tự do báo chí cố hữu … thì chuyện sống được bằng lương mãi mãi chỉ là một kỳ vọng xa vời. Vô phương thực hiện!
Hội nghị Paris là một quá trình đàm phán giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt kể từ ngày 13 tháng 5 năm 1968, sau ngày 25 tháng 1 năm 1969 có thêm Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam (MTGPMN) tham gia. Ngoài 202 phiên họp chính thức của bốn bên, còn có thêm 24 cuộc mật đàm khác giữa Henry Kissinger và Lê Đức Thọ, Xuân Thủy. Cuối cùng, hội nghị kết thúc sau bốn năm chín tháng và bốn bên chính thức ký kết Hiệp định Paris để chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam vào ngày 27 tháng 1 năm 1973.
Ngày 30 tháng Tư năm 1975 khép lại trang sử Việt của hai lực lượng dân tộc đối đầu nhau trong thế tương tranh quốc tế giữa tư bản và cộng sản. Thế tương tranh này kéo dài từ tranh chấp giữa hai triết thuyết xuất phát từ phương Tây – Duy Tâm và Duy Vật, đã làm nước ta tan nát. Việt Nam trở thành lò lửa kinh hoàng, anh em một bọc chém giết nhau trong thế cuộc đảo điên cạnh tranh quốc tế.
Galang là tên một đảo nhỏ thuộc tỉnh Riau của Indonesia đã được chính phủ nước này cho Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp quốc sử dụng trong nhiều năm để người tị nạn Đông Dương tạm trú, trong khi chờ đợi được định cư ở một nước thứ ba. Trong vòng 17 năm, kể từ khi mở ra năm 1979 cho đến lúc đóng cửa vào năm 1996, Galang đã là nơi dừng chân của hơn 200 nghìn người tị nạn, hầu hết là thuyền nhân vượt biển từ Việt Nam và một số người Cam Bốt.
Hình ảnh thay cho ngàn lời nói, ghi nhận rõ "sự hấp hối" của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, ghi lại cảnh hỗn loạn, sự hoảng hốt, nỗi lo sợ của dân chúng lũ lượt rời nơi đang sinh sống, đã bỏ nhà cửa trốn chạy trước khi VC tràn vào thành phố
Chúng ta liệu có thể đóng vai trò giúp đỡ những người nhập cư và tị nạn trong tương lai như là người Mỹ đã từng làm cho chúng ta không? Theo lời của Emma Lazarus, liệu chúng ta có nâng “... ngọn đèn bên cạnh cánh cửa vàng” cho “... kẻ bão táp, người vô gia cư ... người mệt mỏi, người nghèo khổ” không? Đối với chúng tôi, trong ngày 30 tháng 4 này, không có câu hỏi nào có ý nghĩa và tính quan trọng hơn câu hỏi này.
Khách đến Việt Nam ngày nay thấy nhiều nhà cao cửa rộng, xe chạy chật đường hơn xưa. Nhưng đa số người Việt Nam có vẻ không có cái nhu cầu dân chủ của người Myanmar hay người Hồng Kông. Hay là họ có, nhưng 20 năm chiến tranh đã làm họ mệt mỏi, xuôi xị chấp nhận chút đầy đủ vật chất, nhắm mắt với tương lai? Và Đảng Cộng sản Việt Nam có thể hy vọng người Việt sẽ ngoan ngoãn như người dân Bắc Hàn, không cần dự phần tự quyết cho tương lai của mình và con cháu mình?


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.