Hôm nay,  

Lửa Nối Nhau Chẳng Tắt

1/12/201200:00:00(View: 9569)
Lửa Nối Nhau Chẳng Tắt

Nguyệt Quỳnh
Nhưng lửa của tình yêu khi tức giận
Sẽ ra tro mọi lồng cũi mọi ngai vàng
Và những tên bạo chúa khôn ngoan
Hết ảo tưởng thôi van xin chờ đợi
Lửa sẽ bừng lên tự soi sáng cho mình
(Mấy đoạn thơ về lửa-Lưu Quang Vũ)
Những câu thơ trên dường như diễn tả đúng nhất tâm tình và hình ảnh những ngọn đuốc sống của các nhà sư Tây Tạng. Người ta nghe thấy những tiếng hô dõng dạc của họ hoà vào trong ngọn lửa: “Tự do cho dân tộc Tây Tạng!”; “Trung Quốc hãy chấm dứt đàn áp dân Tây Tạng…” Ngọn lửa đầu tiên bùng lên là ngọn lửa của vị sư trẻ mới 21 tuổi.
Mặc đù đối với giáo lý phật giáo, sự sống của con người, của muôn vật đáng quí vô cùng. Sự tự thiêu hàng loạt của các nhà sư này chứng tỏ điều họ cần còn đáng quí hơn chính cả mạng sống của họ. Và như những câu thơ của Lưu Quang Vũ: “Phút đốt cháy là phút nảy mầm, con người trao lửa cho nhau, từ những lồng ngực tròn căng…” Tất cả đều còn rất trẻ, vị sư đầu tiên tự thiêu vào đầu tháng ba năm 2011. Kế đến tại tỉnh Tứ Xuyên, sư Tsewang Norbu 29 tuổi, với quyết tâm không để ai cứu chữa, vị sư này đã uống xăng rồi mới tẩm xăng bên ngoài và tự mình châm lửa đốt. Những cuộc tự thiêu như thế cứ tăng nhanh dần, người thứ chín là một ni cô mới tròn 20 tuổi tại thành phố Aba, người thứ 12 là sư Dawa Tsering 38 tuổi từ tu viện Ganzi. Đây là những hy sinh vô cùng cao quí nhưng cũng cho thấy sự vô cùng tuyệt vọng của những người bị trị dưới bàn tay đẫm máu từ Bắc Kinh, đặc biệt từ thời Hồ Cẩm Đào nắm chức Bí thư Tỉnh ủy Tây Tạng. Chính nhờ công “bình ổn” Tây Tạng đó mà họ Hồ được Đặng Tiểu Bình gọi về thủ đô để chuẩn bị cho lên ngôi “bình ổn” toàn nước Tàu.
Ngài Karmapa, vị sư cao cấp của Phật Giáo Tây Tạng, người thân cận với Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng: “Mỗi bản tin về tự thiêu từ Tây Tạng gửi ra làm tràn ngập tim tôi những đau đớn”. Đức Đạt Lai Lạt Ma, nhà lãnh đạo tinh thần Tây Tạng cũng không tán đồng việc tự thiêu này. Ngài nói với đài BBC trong một cuộc phỏng vấn rằng những hành động như vậy đòi hỏi sự dũng cảm rất nhiều nhưng mang lại rất ít hiệu quả vì Trung Quốc càng đàn áp mạnh hơn. Ngài nói rằng chỉ có “dũng” sẽ không đủ và người Tây Tạng cần phải dùng “trí” nữa. Nhưng ngài cũng cho rằng dưới chính sách cai trị “diệt chủng văn hóa” khắc nghiệt của nhà cầm quyền Trung Quốc, người dân Tây Tạng đã phải dùng phương pháp này chỉ vì tuyệt vọng.
Nét đặc thù văn hoá của dân tộc hiền hoà này được thế giới biết đến qua những bức tranh cát tuyệt hảo Mandala. Các nhà sư Tây Tạng đã bỏ hàng giờ có khi lên đến hàng tuần để hoàn tất một bức tranh cát. Nhưng ngay sau khi hoàn thành, họ lại xoá sạch ngay những bức tranh ấy. Sự xoá sạch những công trình này để thuyết phục người xem về bản chất vô thường của muôn sự vật trên thế gian này, dù có sặc sỡ, hoành tráng đến đâu đi nữa. Các tín đồ phật giáo Tây Tạng tự coi bản thân họ là một Mandala, vạn vật, kể cả chính họ là một vị Phật tiềm năng. Sau khi xoá, cát trong tranh được gom lại đựng vào trong một cái bình và được mang đến một dòng sông. Họ đổ cát ấy xuống dòng sông để sông mang cát ra đại dương, mang đi khắp thế giới hầu mong mang lại hòa bình và sự hài hòa cho cả hành tinh con người.
Hàng loạt các vụ tự thiêu của những con người nhân ái ấy đã làm rung động trái tim thế giới. Thế nhưng Trung Quốc lại gọi những hành động này là một loại “khủng bố”. Trong khi đó, các trò man rợ của công an đối với dân chúng Tây Tạng, đặc biệt là đối với thân thể các ni cô trong ngục tù, lại được ca tụng là công trạng bình ổn xã hội.

(Cách hành xử ngược ngạo này làm người ta nhớ tới cảnh những kẻ bán nước tống người yêu nước vào “cơ sở giáo dục” tại Việt Nam hiện nay; hoặc cảnh những nhóm công an thường phục và đầu gấu khủng bố thật các giáo dân, thậm chí ném mìn vào nhà Nguyện, thì được khen thưởng và trả tiền, trong lúc các nhóm công an sắc phục đốt hàng tỷ đồng để thu hình tập trận phòng chống khủng bố tưởng tượng).
Cũng có người đặt câu hỏi: tại sao ở Tunisia chỉ một vụ tự thiêu đã khiến toàn dân đứng dậy, trong khi tại Tây Tạng đã có đến 12 vụ tự thiêu mà ngọn lửa cách mạng vẫn không bùng lên được? Sự kiện này có thể nói bắt nguồn từ hai lý do chính. Lý do thứ nhất là đất nước Tây Tạng còn bị công an Trung Quốc xiềng xích quá chặt. Và cùng với công an là con số dân chúng người Hán được đưa qua để thực hiện chính sách đồng hoá. Số dân Hán này hợp tác chặt chẽ với công an để bảo vệ quyền lợi của chính họ. Do đó, cần phải có những bước giữa để nong rộng bớt vòng xích hiện nay trước đã, qua các hành động bất bạo động. Lý do thứ hai, tuy cách thức tự thiêu, dù cao quí, vẫn rất khó thành công vì số đông người Tây Tạng không thể bắt chước được. Yếu tố số đông khó có thể đạt được qua cách thức này, trong khi các cuộc cách mạng thành công tại Á Rập đã chứng minh vũ khí chiến lược này để đối đầu với một chế độ độc tài. Người dân tay không cần những cách thức dễ hơn để kết thành số đông.
Chuyện Tây Tạng cũng nhắc dân tộc Việt về số phận tương lai của mình nếu tiếp tục con đường hiện tại. Ngày Việt Nam trở thành một Tây Tạng thứ hai không còn là một dự đoán. Tai họa ấy đang diễn ra trong tiệm tiến và hòa bình. Đây mới là thứ “diễn biến hòa bình” đúng nghĩa! Nhìn về lãnh thổ, Trung Quốc đã lấy gọn Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc và nhiều vùng đất dọc theo biên giới, chưa kể các vùng rừng cho không dưới danh nghĩa “cho mướn nửa thế kỷ”; Hoàng Sa, Trường Sa và cả vùng biển chung quanh 2 quần đảo này đã trở thành “sân sau” của Bắc Kinh. Bên cạnh đó, mượn tiếng khai thác bôxít tại Tây Nguyên họ đã đưa hàng ngàn người Trung Quốc lên “nóc nhà của Đông Dương”. Hàng trăm các hãng thầu Trung Quốc với hàng trăm ngàn người Hoa lập các khu riêng với bảng hiệu, tiền tệ mua bán, và sinh hoạt như đang sống tại Tàu. Thế vẫn chưa đủ, lãnh đạo Hà Nội còn cho xây hẳn những vùng chuyên biệt của người Hoa trên khắp các tỉnh, từ Nam chí Bắc. Hình ảnh lá cờ sáu sao trên tay các em bé Việt Nam khi đón Tập Cận Bình là hình tượng rõ nét nhất về một đất nước Việt Nam tương lai mà Bắc Kinh muốn nhìn thấy và Hà Nội đã vâng chịu.
Cái vòng kim cô của Trung Quốc đã nằm sẵn trên đầu nhưng kẻ lãnh đạo đất nước Việt Nam. Những ngày cuối năm, bản tin về các bản án tù dành cho người yêu nước cứ dồn dập, các thanh niên công giáo đã bị bắt cóc và đang bị bắt cóc mỗi ngày. Muốn hay không muốn thì bóng đêm đen tối của đất nước cũng đang đến gần. Điều khác thường xảy ra chỉ có thể được quyết định bằng chính sự dũng cảm của dân tộc Việt Nam. Chúng ta có đem được một mùa xuân đích thực cho quê mẹ như dân tộc Tunisia, Ai Cập hay không là chọn lựa của chính chúng ta. Và phương thức đấu tranh xem ra khả thi và hữu hiệu nhất ở giai đoạn này vẫn là phương pháp đấu tranh bất bạo động. Đã có rất nhiều dân tộc chọn phương thức đấu tranh này, đặc biệt trong suốt nửa thế kỷ qua, và đã thành công.
Những ngọn lửa tự thiêu ở Tây Tạng làm tôi chợt nhớ đến Lưu Quang Vũ. Anh là một nhà thơ, nhà viết kịch tài hoa. Anh đã thắp lên ngọn lửa của chính mình ngay từ thập niên tám mươi của thế kỷ trước. Tôi yêu vô cùng ngọn lửa của Lưu Quang Vũ — ngọn lửa không phải được đốt lên từ thân xác mà từ hành động. Ngọn lửa đó dường như đã được chuyển trao từ bao thế hệ cha ông:
“Nhân dân có gì giống lửa phải không anh.
Gió bão ngàn đời vẫn nối nhau chẳng tắt…”

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.