Hôm nay,  

Sao Ba Lại Bỏ Con

04/08/201200:00:00(Xem: 9233)
Giao Chỉ- San Jose.

(Viết cho bé gái tìm cha, viết cho bà mẹ thuyền nhân, tình duyên trắc trở.
Có con chim đa đa, chồng xa không có, chồng gần cũng không. Bốn con đủ bốn ông chồng…)

Ngàn dặm tìm cha. 

Tôi sẽ kể cho quý vị nghe câu chuyện của cô gái thần dân vương quốc Đan Mạch 21 tuổi từ đất nước của loài tiên cá đã đến San Jose tìm cha. Cha của cô là Đặng kim Nhật, mẹ là Nguyễn thị Ngọc Hoa. Cả 2 là Thuyền nhân. Gặp nhau tại Phi và cô Nguyễn Đặng Nhã Uyên ra đời năm 1991. Từ Phi Luật Tân anh chàng Kim Nhật họ Đặng bỏ mẹ con cô để cùng anh em họ Đặng đi Mỹ. Mấy tháng sau mẹ Ngọc Hoa họ Nguyễn bế con chưa đầy năm đi Đan Mạch. Đứa con gái Việt Nam còn giữ mãi cái tên Nhã Uyên đến làm dân xứ lạ có 443 hòn đảo. Họ của cô là họ cả cha lẫn mẹ Nguyễn Đặng. Cô Uyên không có tên Đan Mạch. Năm 12 tuổi Uyên hỏi mẹ ba con đâu. Mẹ kể lại câu chuyện tình duyên của thuyền nhân, chuyện vượt biển, chuyện cộng sản và sau cùng là tin tức về người cha xa cách nghe nói hiện tại ở San Jose. Cả chuyện ông Nội bị Việt cộng chôn sống. Chủ nhật cuối tháng 7-2012 vừa qua, trên lầu 2 của viện bảo tàng Thuyền nhân Việt Nam tại San Jose tôi hỏi chuyện cháu bằng Anh ngữ và Việt ngữ. Nếu bây giờ con gặp ba thì con sẽ hỏi câu gì. Phải chăng con hỏi rằng tại sao ba lại bỏ má con. Uyên lắc đầu : Thưa bác con sẽ hỏi là tại sao ba lại bỏ con ? Câu hỏi này con đã nghĩ đến từ lúc 12 tuổi.
nha_uyen_va_me
Nhã Uyên 20 tuổi, Uyên 17 tuổi và mẹ, Bà mẹ thuyền nhân.
Đan mạch là ở đâu:

Denmark là xứ sở của nền quân chủ lâu đời cũng tương tự như Anh Quốc, gọi là quân chủ lập hiến. Thực ra đó là đất nước dân chủ. Vương triều chỉ còn tượng trưng. Dân số 6 triệu, Phía Nam giáp Đức quốc , còn chung quanh là biển. Sau hơn 30 năm nước này tiếp nhận thuyền nhân, rồi them gia đình đoàn tụ hiện có trên 10 ngàn dân Việt. Mẹ con cô Uyên là gia đình Việt Nam trong cộng động nhỏ bé đó. Ở đây cũng có chùa, nhà thờ và lớp Việt Ngữ. Từ thuở nhỏ Uyên đã được cho đi học Việt Ngữ. Biết đọc, biết viết, cũng đủ để viết thơ cho họ hàng của mẹ còn ở Việt Nam. Năm tốt nghiệp cuối cùng lớp Việt Ngữ, Nhã Uyên đã được các phần thưởng vì thành quả xuất sắc. Ngay bây giờ cháu còn đọc được báo Việt và những bài học thuộc lòng của lớp Việt Ngữ. Hỏi cháu biết hát không. Có, con hát theo cái đĩa nhạc phát hành bên Cali. Con hát bài gì. Bài thích nhất là chim Đa Đa. Hỏi rằng con thương ai nhất, Nhã Uyên thương má nhất. Má của cô có cuộc đời thuyền nhân còn khổ hơn chim Đa Đa. Cô sẵn sàng kể hết chuyện nhà trên xứ Đan Mạch. Chẳng hề dấu diếm, chẳng hề mặc cảm ngại ngùng. Cô là con gái duy nhất của mẹ, nhưng cô có đến 3 em trai. Cô thương từng đứa. Cô gọi cha của những đứa em là ba của em con. Hỏi mẹ cô hiện ở với ai. Cô nói ly dị hết rồi. Cô đi học đại học ở trong trường. Mẹ ở với 3 em. Ba người con với 3 ông chồng Việt Nam. Nhưng hiện không còn ông nào cả. Chỉ còn mẹ với 3 con trai. Vì vậy nên cô thương mẹ nhất. Cuộc đời tình duyên của mẹ rất ngang trái. Hỏi cô có thương ba không. Uyên nói con chưa biết là sẽ thương hay ghét. Có ở gần đâu mà biết. Cô nghe kể lại có gặp ba lần duy nhất. Lúc đó cô 5 tháng tuổi. Ba đến gặp mẹ để chia tay trong trại tỵ nạn Phi Luật Tân.
nha_uyen_trinh_dien_cac_dieu_vu
Nhã Uyên trình diễn các điệu vũ.
Ngày xưa mẹ có hình của ba, nhưng đã thất lạc rồi. Đứa bé 5 tháng làm sao nhớ mặt cha.

Gặp gỡ tình yêu.

Năm 20 tuổi Nhã Uyên ghi danh đi thi môn vũ. Cô tự coi là có khả năng về nghề múa. Muốn trở thành vũ công chuyên nghiệp. Sẽ đi biểu diễn và sẽ trở thành vũ sư dậy nhảy múa. Đó là Plan A. Còn không được thì sẽ làm nghề nuôi trẻ. Trông trẻ sơ sinh hay làm cho vườn trẻ. Đó là Plan B.

Nhưng đôi khi không chuẩn bị mà lại có Plan C. Nhã Uyên đi thi vũ gặp một nam thí sinh và 2 người quen nhau. Quen nhau rồi yêu nhau, rồi hứa hôn. Cậu nầy cũng là sinh viên và là người Đan Mạch thứ thiệt. Mới 22 tuổi, tên là Bjarhe thuộc dòng họ Stanley Nielsen. Chàng ở thành phố Aarhus, nàng ở Valby cách xa nhau như LA với San Jose. Hai tuần tình yêu mới gặp lại. Khá vất vả. Dự tính cuối năm 2012 thì sẽ ăn cơm chung. Hỏi có làm đám cưới không. Chưa biết. Dọn vào chung phòng là chắc. Cháu theo đạo nào. Cháu đi chùa theo mẹ. Còn cậu kia võ tự do.
nha_uyen_hai_trinh_vuot_bien
Nhã Uyên trước bản đồ hải trình vượt biên.
Hoàn thành sứ mạng.

Nhưng trước khi các cô cậu sinh viên đại học quyết định về ở chung thì cô Nhã Uyên có sứ mạng phải hoàn tất. Phải qua San Jose tìm cha. Đài truyền hình 12 của Đan Mạch là 1 cơ sở truyển thông lớn thuộc công ty Gong có chương trình trên khắp các thành phố.

Cô Celeste Pedersen là đạo diễn và chuyên phụ trách phim phóng sự đã nghe được chuyện của Nhã Uyên. Từ chuyện tình đến chuyện thuyền nhân Từ quyết tâm của cô gái trẻ Á Châu có sự yểm trợ vô điều kiện của cậu sinh viên Đan mạch. Đài bèn quyết định tài trợ cho chuyến đi San Jose. Bao trọn gói cho đôi trẻ qua Cali. Từ Copenhagen thủ đô Đan mạch phái đoàn quay phim qua Anh quốc. Rồi bay qua Mỹ. Từ LA có xe van lớn và chuyên viên dụng cụ lái về San Jose. Trong tay cô gái chỉ có tên người cha Đặng kim Nhật. Không có địa chỉ, không có điện thoại. Không biết cha của cô có còn ở San Jose hay không. Không có hình ành. Không có 1 tin tức gì để tìm dấu vết. Kim Nhật không biết có ở trong quân đội hay không. Chẳng biết thuộc hội đồng hương nào. Không biết sinh hoạt ra sao? Trong mấy ngày qua cô được lên Radio, báo chí, truyền hình vùng San Jose phỏng vấn. Tham dự các buổi họp mặt, trong đó có cả các chương trình của phó thị trưởng Madison. Chưa có kết quả.

Họp mặt tại Museum.

Phái đoàn TV từ Đan mạch qua đã lên chương trình đem cô Nhã Uyên và cậu vị hôn phú đến thăm viện bảo tàng Thuyền nhân tại San Jose. Năm trước đã có phái đoàn từ vương quốc nầy qua thăm nên về kể chuyện lại. Cô giám đốc của TV Đan mạch muốn Nhã Uyên đến với viện Bảo tàng để có thể cảm nhận hoàn cảnh của cha mẹ cô đã trải qua trên biển cả.
nha_uyen_chim_da_da_voi_4_con
Mẹ Nhã Uyên và 4 con.
Và những xúc động quả thực đã dâng tràn trên khuôn mặt cô gái trẻ Việt Nam, dù ngày nay cô đã nhuộm tóc vàng theo truyền thuyết như các nàng tiên cá trên các bờ biển Đan mạch.

Đứng trước bức hình phối hợp thống kê và nghệ thuật của 20 năm lịch sử thuyền nhân có các con đường vượt biển, các trại tỵ nạn trên biển Đông, cô Nhã Uyên nói rằng. Năm 12 tuổi mẹ kể đầu đuôi. Cha không biết từ trại nào chuyển qua Phi đã 2 năm thì mẹ đến. Hai người quen nhau cuối năm 90. Đến 1991 bé Nhã Uyên ra đời. Con gái được 5 tháng thì cha mẹ chuẩn bị thành hôn, ghép hộ, làm đám cưới.

Nhưng rồi cha được nhận vào Mỹ. Mấy người anh em của cha giục giã lên đường. Có thể áp lực từ gia đình, có thể chính người cha sau nhiều năm đợi chờ mệt mỏi nên vội vã bỏ lễ cưới. Mẹ kể cha đến thăm mẹ lúc con 5 tháng. Rồi từ đó chia tay. 12 năm sau con gái nghe mẹ kể lại đoạn trường.

Trên đất Đan Mạch mẹ lấy chồng 3 lần, sanh ra 3 em trai và bây giờ bà ở một mình. Con chim Đa Đa Saigon ngày nay, chồng xa chẳng có, chồng gần cũng không. Còn phần người cha, nghe nói ở San Jose có về Việt Nam cưới vợ 2 lần. Nhưng lần đầu đổ vỡ nên mới có lần thứ hai. Sau đó ra sao, Nhã Uyên không biết. Chuyến vào thăm Museum tình cờ có nhiếp ảnh viên vui tính Huỳnh Minh Nhật đi theo vừa chụp hình vừa quay phim phóng sự. Chụp được pô nào là ghé máy cho các tài tử coi hình tại chỗ. Khi cô gái nói thích bài chim Đa Đa là nhiếp ảnh gia cất tiếng hát liền.

Có con chim đa đa nó đậu cành đa
Sao không lấy chồng gần mà đi lấy chồng xa
Có con chim đa đa hót lời nỉ non
Sao em nỡ lấy chồng từ khi tuổi còn son
nha_uyenva_hon_phu_dan_mach
Nhã Uyên và vị hôn phu Đan Mạch.
Cậu hôn phu Đan Mạch của Nhã Uyên vừa là hộ tống, vừa là phu khuân vác, vừa là hầu bàn đi theo vợ chưa cưới suốt lộ trình. Khi dẫn phái đoàn vào ăn trong khu bình dân ở Century Mail, anh chàng này khoanh tay đứng gác cửa. Sợ không an toàn hay nàng sẽ đi mất tiêu vào cộng đồng Việt Nam mà không trở về Đan mạch. Anh chàng mua thử ly nước mía mà cậu gọi là nước cây tre. Xem ra không uống nước được cứ phải cầm tay xuốt lộ trình, không biết đổ đi đâu.

Thật may mắn là cả 2 cô cậu này nói Anh Ngữ thông thạo mặc dù chỉ học từ trung học có 5 giờ 1 tuần.

Cô giám đốc chương trình TV Đan mạch nói rằng chỉ còn 2 ngày nữa ở San Jose. Xem chừng không tìm được anh chàng Đặng kim Nhật tuổi chừng 50. Hơn 20 năm trước từ Phi đi Mỹ. Vợ chưa cưới và con gái đi Đan mạch. Nếu không gặp nhau bây giờ thì sau này mà tìm thấy, đài TV sẽ rước ông qua Đan mạch gặp lại con gái.

Đứa con gái Việt Nam, năm nay 21 tuổi, nói được 3 thứ tiếng. Nhuộm tóc vàng nhưng vẫn còn thông thạo Việt ngữ. Cô sẽ mong trở thành diễn viên nhẩy múa đi trình diễn khắp thế giới tìm cha. Tôi nói, con viết tiếng Việt cho bác xem chữ nghĩa ra sao. Cô hỏi lại. Con viết gì đây. Viết 1 câu cho mẹ, 1 câu cho ba, 1 câu cho Việt Nam và 1 câu cho Museum Thuyền nhân.

Nhã Uyên viết như sau.
Viết cho mẹ : Con thương mẹ nhiều lắm.
Viết cho ba : Con muốn gặp mặt ba một lần cuối trong đời.
Viết cho Việt Nam : Con luôn luôn là con gái Việt Nam.
Viết cho bác Lộc. Con thích Museum lắm.

Khi viết cho trang kỷ niệm của Viện Bảo tàng bằng Anh ngữ, cô Uyên viết dễ dàng và dài hơn. Đại ý qua hình ảnh và di vật cô hiểu rõ về Thuyền nhân và hoàn cảnh của cha mẹ. Mỗi bức hình, mỗi di sản đều là 1 câu chuyện về chiến tranh, biển cả, thuyền nhân, tỵ nạn, sống và chết. Tất cả đã gây cảm xúc lớn lao cho Nhã Uyên 21 tuổi đến từ Đan mạch.

Và bây giờ trở lại câu chuyện. Nhã Uyên nói : Sao ba lại bỏ con. Bỏ mẹ còn được, bả lấy chồng khác. Bỏ con làm sao con có cha khác. Ba sau này là ba của các em con.

Ông bà nào biết Đặng kim Nhật ở đâu, xin chỉ cho cháu. Xin gửi về [email protected] .Có thể viết bằng tiếng Đan mạch, Anh ngữ hay Việt ngữ.

Cũng có thể gọi cho chúng tôi 408 316 8393.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.