Hôm nay,  

Chuyện Táo Tây

24/10/201200:00:00(Xem: 7846)
Chuyện Táo ta khác với chuyện Táo Tàu tuy nội dung tín ngưởng gần như giống nhau. Nét căn bản nổi bật trong truyện Ông Táo Việt nam, khác với Tàu, là Ông Táo, tức đàn ông, và có tới hai Ông. Hai ông lại có chung một Bà Táo.

Trong xã hội, khi hai ông cùng ăn ở chung với một bà không tránh khỏi bị dư luận gọi là gia đình Táo.

Hôm thứ năm 11 tháng 10, nhà xuất bản Moment ở Paris cho phát hành quyển “La Frondeuse” (Người đàn bà kiếm chuyện – chữ frondeuse có nghĩa “người chống đối, chỉ trích, xách mé” ), 224 trang, giá 18, 50 euros, đang gây ồn ào trong dư luận vì sách kể chuyện thầm kín của Bà bồ của ông Tổng thống Hollande. Sách tiết lộ Bà Valérie Trierweiler, trước khi gặp Ông François Hollande, đã là bồ của Ông Patrick Devedjian, Tổng trưởng trong Chánh phủ Raffarin thời T.T. Chirac. Bà vẫn giử mối quan hệ với Ông Devevjian trong khi cặp với Ông Hollande. Mối tình tay ba trong suốt thời gian dài cho tới khi bà dứt khoát với Ông Devedjian để chỉ giử lại Ông Hollande. Ông Devedjian rất bất mản nhưng ông và Ông Hollande, cả hai, cùng giử sự tương kính nhau tuy hai người về mặt quan điểm chánh trị đối nghịch nhau vì kẻ theo hữu phái, người tả phái. Một cách ứng xử như hai người có ký kết với nhau một thỏa ước vậy. Riêng Ông Devedjian đã không muốn hạ Ông Hollande vì bị mất bồ về tay Ông Hollande khi Ông Hollande vận động tranh cử Tổng thống 2007 tuy Ông Devedjian nắm sẳn trong tay con bài tẩy lợi hại có thể giúp ông hạ tình địch dễ dàng. Ông Devedjian chơi đẹp kiểu quân tử tàu hay có một hậu ý chánh trị? Hay vì ông cũng từng là người tình của bà bồ Ông Hollande?
tao_tay_la_frondeuse
Bìa cuốn “La Frondeuse”.
Tác giả La Frondeuse là Ông Christophe Jakubyszyn, nguyên ký giả của Đài RMC vừa được đề cử làm Chánh Sở Chánh trị của Đài TV1 và Bà Alix Bouilhaguet, phóng viên lớn của Sở Chánh trị Đài TV 2. Hai đồng tác giả đang bị Bà Valérie Trierweiler và Ông Patrick Devedjian thưa ra Tòa về tội “xâm phạm đời tư và phỉ báng”.

Có số hồng loan

Chuyện tình tay ba kể lại trong sách “La Frondeuse” không phải là điều mới mẻ vì trước đây người ta đã đọc qua quyển “Entre deux feux” (Giửa hai lằn đạn ), hai nhà văn nữ Anna Cabana và Anne Rosencher đã đề cập tới câu chuyện đồn đải về mối quan hệ tay ba này nhưng chưa được xác nhận. Và hai tác giả không đưa ra tên thiệt của các nhơn vật. Ngoài ra, còn thêm vài ba quyển nữa cũng nói về đời tư của Bà Valérie Trierwieler. Mỗi tác giả khám phá đôi nét riêng tư về đời sống tình cảm của bà. Mẹ của bà cho biết bà là người được sanh ra để quyển rủ đàn ông tuy gia đình không phải thuộc hạng cao sang gì.

Đọc qua sách La Frondeuse, ngưòi đọc khó nắm chắc đó thật sự đúng là câu chuyện quan hệ tay ba giửa Bà Valérie Trierweiler với hai Ông Devedjian và Hollande. Nhưng người đọc thấy được chiều dài của mối quan hệ ấy trải qua nhiều năm, từ 1998 tới 2004. Khi đề cặp tới mối quan hệ, tác giả thận trọng dùng động từ ở thể “điều kiện cách” (mode conditionnel) và tác giả lại “tự hỏi câu chuyện ấy, thực tế như thế nào?” nên trong việc kiện thưa tác giả, lập luận buộc tội của luật sư sẽ thấy phức tạp.

Về phía tác giả, Ông Christophe Jakubyszyn cho biết ông có bằng cớ do chính nhơn vật trong truyện tiết lộ.

Câu chuyện liên hệ tới ba người nhưng chỉ có hai người, Bà Valérie Trierweiler và Ông Devedjian, phản đối và đưa tác giả ra Tòa. Còn người thứ ba là Tổng thống Hollande chưa thấy có thái độ. Nhưng đâu là ranh giới đời tư của một nhơn vật công? Lúc nào lằn mức đỏ bị vi phạm? Thật rất mơ hồ. Đâu là thuộc phạm vi đời tư? Đâu thuộc phạm vi đời công? Theo tác giả Alix Bouilhaguet, trên TV Canal +, chuyện xảy ra từ 1998 tới 2004, lúc đó Bà Valérie Trierweiler còn là một ký giả bình thường. Chưa phải là bà “Đệ nhứt bồ” của nước Pháp ( La Première Compagne de la France )!

Theo Ông Christophe Jakubyszyn, đồng tác giả, chuyện tình tay ba trong La Frondeuse nhắc độc giả nhớ lại truyện phim “Jules và Jim” của Pháp phát hành năm 1962 trong đó cũng có ba nhơn vật, hai ông với một bà:

“Paris, trước Đệ nhứt Thế chiến, Jim, thanh niên pháp và Jules, thanh niên áo (Autriche), là hai người bạn thân không rời nhau. Một hôm, hai người cùng yêu một người con gái tên Catherine. Cô này lại chọn lấy Jules. Sau chiến tranh, Jim qua Áo (Autriche) tìm bạn. Catherine thú nhận sống với Jules không hạnh phúc. Jules chấp nhận cho Catherine lấy bạn của mình làm người tình”.

Để thấy Bà Valérie Trierweiler quả là một người đàn bà đầy sức quyến rủ, trong một dịp tiếp tân tại Điện Elysée (Garden-party) năm 2000, Ông Sarkozy trong lúc đang nắm tay vợ, ngỏ lời bên tai bà tán tỉnh “Ồ! Sao có người đẹp vậy?”. Ông liền bị bà phản ứng bằng cái nhìn biểu lộ sự coi thường ông Tổng thống tương lai. Sự thất bại làm cho Ông Sarkozy thấy khó chịu “Cô ấy cho mình là ngon hả? Bộ tôi không xứng đáng với cô ta sao?”. Riêng Ông DSK, theo tác giả La Frondeuse, nhìn thấy Bà Valérie Trierweiler đã nuốt nước miếng mà khen “Nhà báo đẹp nhứt nưóc Pháp!”.

Bà Valérie Trierweiler, theo tác giả của La Frondeuse, khi cặp với Ông Devedjian, bà còn đang ăn ở chánh thức với chồng là Ông Denis Trierweiler. Phải chăng vì vậy mà báo chí từ lúc bà trở thành bà Bồ của Ông Hollande luôn luôn vây quanh bà để săn tin về đời sống tình ái của bà. Đây mới là những tin hấp dẩn hơn hết trong thời buổi khủng hoảng này.

Nhưng ở Pháp không giống như ở Anh và Mỹ, báo chí không được phép thoải mái khai thác những chuyện riêng tư của những nhơn vật chánh trị. Vì vậy mà dưới thời Ông Mitterrand suốt 14 năm dài, bao nhiêu là chuyện không bình thường mà không mấy ai được biết vì tất cả đều được xếp vào loại bí mật quốc gia. Như Ông Mitterrand có vợ lẻ và có con riêng, bệnh tật ngặt nghèo,…

Khi thực hiện quyển La Frondeuse, tác giả cho biết đã làm một cuộc điều tra nghiêm chỉnh. Hai người muốn đưa ra thảo luận “cái lấn cấn giửa chánh quyền và nhà báo chánh trị”.

Một con người vô cùng phức tạp

Tác giả La Frondeuse phát họa hình ảnh một phụ nữ vừa quyến rủ vừa đầy mâu thuẩn nội tại. Bà vừa muốn là người phụ nữ Đệ nhứt của nước Pháp, vừa muốn giử tính độc lập của một nhà báo chánh trị.

Đồng tác giả La Frondeuse muốn làm sáng tỏ về việc Bà Valérie Trierweiler có thật sự tham gia vào việc soạn thảo quyển sách liên hệ tới bà hay không. Bà Alix Bouilhaguet nói rỏ “Không có ai cho phép cả. Chúng tôi muốn gặp bà ấy để phỏng vấn. Khi chúng tôi gặp bà ấy thì chánh thức không phải để thu thập thông tin viết sách và càng không phải là một cuộc nói chuyện có kiểm soát. Chúng tôi cũng không bị gài bẩy. Nhưng nên biết Bà Valérie Trierweiler là người vô cùng phức tạp. Bà vừa bước tới ba bước thì lại thối lui hai bước rồi. Dầu sao chúng tôi vẫn vui lòng để cho bà tự do nói tiếng nói của bà….” Ông Christophe Jakubyszin tiếp lời “Bà ấy không chấp thuận cho chúng tôi một cuộc nói chuyện chánh thức để thực hiện quyển sách này. Bà sợ những trích dẩn, nhưng chúng tôi đã nhiều lần gặp bà, liên lạc với bà để phối kiểm những điều bà đã tiết lộ với chúng tôi. Dầu sao bà cũng đã biết rất rỏ đó là chúng tôi làm cuộc điều tra. Và bà muốn chấm dứt những ảo giác về hạnh phúc tình ái bà đã sống trong thời gian dài vừa qua. Nhứt là chuyện bà chưa ly dị với ông chồng Denis Trierweiler mà mải đến năm 2007 bà mới ly dị và đến năm 2010 Tòa mới phán quyết”.

Được thông báo Bà Valérie Trierweiler đã nhờ luật sư kiện, hai tác giả La Frondeuse trả lời với Pháp tấn xã “Chúng tôi ghi nhận quyết định ấy và chúng tôi chờ pháp luật làm việc. Điều đó thêm một lần nữa đánh dấu những lấn cấn giữa chánh quyền và nhà báo ở Pháp”.

Từ sau Hè năm nay, nhiều sách báo viết về một người phụ nữ đầu tiên bị dồn dập bỡi những cuộc thăm dò dư luận, bị báo chí bươi xới chuyện riêng tư, phê phán tư cách cá nhơn đã làm cho bà phải chịu xuống nước thừa nhận trong sáu tháng đầu, bà đã có nhiều sai lầm. Nhưng đây có lẻ chỉ mới là bắt đầu cho một truyện dài hằng ngày mang tính luật pháp-chánh trị- văn chương.

Móng vuốt mỹ nhơn

Bà Valérie Trierweiler muốn thay đổi địa vị ngày nay của bà trong Tòa soạn Tuần báo Paris Match. Bà làm áp lực lên Ban Giám đốc tuần báo.

Bà không mấy hài lòng sách tường thuật mối quan hệ của bà với các nữ đồng nghiệp trong Paris Match. Trong chiến dịch vận động bầu cử Tổng thống của Ông Hollande, bà đã loại Bà Sylvie Santini, “một phóng viên đầy kinh nghiệm và nghiêm túc đã từng nắm vững vấn đề cánh tả”. Và bà đưa Bà Mariana Grépinet, một phụ nữ trẻ thay thế để theo dõi ứng cử viên đảng xã hội.

Tuần báo không muốn có “sự xung đột nội bộ” và vì “phụ thuộc vào Tập đoàn tư bản Lagardère liên hệ chặc chẻ với chánh quyền” nên phải giử bà lại với mục văn hóa. Bà được hưởng những đối đải mà chỉ có những nhà báo có trách nhiệm cao mới có được. Như hình ảnh, chọn đề tài, bài viết trên một trang nguyên,...

Đó chưa phải là chuyện nhức đầu duy nhứt của chủ nhiệm Paris Match. Làm thế nào viết về cặp Hollande-Trierweiler khi bà Đệ nhứt bồ của xứ Pháp vụt gởi cho ký giả đồng nghiệp một bức thư ngắn (SMS) phản đối tại sao còn nói tới “cặp” Royal-Hollande nữa mặc dầu bà ký giả Mariana Grépinet chỉ nói về các con của hai người này.

Có lẻ những câu chuyện ồn áo, gay cấn do Bà Valérie Trierweiler gây ra trong Paris Match đã làm cho một số trang sách La Frondeuse thêm phần hứng thú cho độc giả.

Dân Pháp đối với Bà Bồ của Ông Tổng thống Hollande

Theo kết quả thăm dó dư luận phổ biến hôm 03/10/2012 (Benjamin Hue,Le HuffPost ), có không tới 1 trên 3 người dân Pháp có cảm tình với Bà Valérie Trierweiler.

Theo bán tuần báo VSD ngày 4 Oct, có 4 trên 10 người Pháp trong dư luận cánh tả cũng như cánh hữu cho biết họ có một người Đệ Nhứt Phụ nữ không thấy dể cảm tình chút nào. Phần còn lại có 44 % dân chúng cho rằng Bà Valérie Trierweiler chiếm một “địa vị quá quan trọng” từ khi Ông Hollande đắc cử Tổng thống và 42 % than phiền đời tư của ông đã làm cho hình ảnh vị Tổng thống nước Pháp không đẹp.

Theo tổng kết của nhà báo Guy Birenbaum phổ biến ngày 20/09/2012 thì dân Pháp thật sự không có mấy ai thấy cần phải có một “Đệ Nhứt Phụ nữ” hay “Đệ Nhứt Phu nhơn”.

Dân chúng chỉ bầu ông Tổng thống hay bà Tổng thống chớ không bầu bà vợ, bà bồ hay ông chồng, ông bồ của Tổng thống. Vậy tại sao khi Tổng thống đi thăm viếng chánh thức phải có vợ hay chồng đi theo bên cạnh? Tháng 10/2007, TT. Sarkozy bị bà vợ Cécilia bỏ, ông qua thăm viếng chánh thức xứ Maroc có một mình thì sao? Vả lại, bà vợ (ông chống) hay bà bồ (ông bồ) là người không được định chế nhìn nhận. Tại sao một người độc thân không có thể làm tròn nhiệm vụ dân cử được? Ai còn thắc mắc, mời qua Việt nam học 2 tấm gương chói lọi của Bác Ngô và Bác Hồ suốt đời không vợ để phục vụ quốc gia dân tộc!

Dân chúng thật sự không thấy cần phải có bà Đệ Nhứt Phụ nữ. Một vị Tổng thống đơn độc sẽ làm cho mọi người khó chịu chăng? Nay là cơ hội để dân chúng Pháp vượt qua cái tập quán nghi lễ không cần thiết đó.

Bà Vlérie Trierweiler muốn tiếp tục làm nhà báo để có tiền nuôi ba đứa con còn nhỏ như bà nói, tại sao bà không có quyền thực hiện ý muốn “bình thường” (Ông Hollande tự cho là Tổng thống “bình thường” ) và tốt đẹp đó?

Dân chúng mong muốn có một diển tiến mới trong đời sống chánh trị nước Pháp để “Đệ Nhứt Phụ nữ” không còn nữa.

Khi Bà Valérie Trierweiler làm ký giả thì hảy trả lại Văn phòng trong Tổng thống phủ với Ban Thư ký, vị Đổng lý và cả một ê-kíp nhơn sự để giúp tiết kiệm cho ngân sách quốc gia một khoản chi phí lớn trong lúc công nợ cao tới cổ.

TT.Hollande sẽ ban hành luật cho phép giới đồng tính cưới nhau nhưng ông nhứt định không cưới vợ, chỉ giử bồ thôi. Bà Vallérie Trierweiler cương quyết giử nghề làm báo nuôi con. Nay điều kiện thuận lợi đã có để bà xếp lại những trang nghi lễ củ, mở ra cho nước Pháp một giai đoạn mới mẻ.

Làm như vậy, chắc chắn bà sẽ khôi phục cảm tình của dân chúng trọn vẹn.

Nguyễn thị Cỏ May

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.